Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Sách GLHTCG_Phần 3_Đoạn 1_Chương 1_Mục 1

PHẦN THỨ BASỰ SỐNG TRONG CHÚA KITÔ

Phần chính của thạch mộ Junius Bassus được tìm thấy phía dưới tòa giải tội của đền thờ thánh Phê-rô tại Rô-ma, đề năm 359.

Đức Ki-tô vinh hiển, được trình bày rất trẻ (dấu chỉ thiên tính của Người), ngồi trên ngai trời, đạp trên thần trời Ouranos của dân ngoại. Vây quanh Người là hai tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Cả hai hướng về Đức Ki-tô và nhận lãnh hai cuốn Luật mới.

Như xưa ông Mô-sê đã nhận lãnh Luật cũ nơi Thiên Chúa trên núi Xi-nai, nay các tông đồ, được đại diện bởi hai vị đứng đầu, nhận nơi Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Chúa trời đất, Luật Mới, không còn được viết trên những bia đá nữa nhưng được Thánh Thần khắc ghi trong tâm hồn các tín hữu. Đức Ki-tô ban cho ta sức mạnh để sống "đời sống mới" (k. 1697). Người đến để kiện toàn trong ta điều Người đã dạy vì thiện ích của ta (x. k 2074)

1691 790.
"Hỡi các Ki-tô hữu, hãy nhận biết phẩm giá của mình. Nay anh em đã được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, đừng quay lại cuộc sống thấp hèn trước kia. Hãy nhớ Thủ Lãnh của anh em là Đức Ki-tô và anh em là chi thể của Hội Thánh. Đừng quên anh em đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được đưa vào trong ánh sáng Nước Thiên Chúa" (T. Lê-ô cả, bài giảng 21, 2-3).

1692.
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng công trình sáng tạo là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người, nhưng hồng ân cứu chuộc và thánh hóa còn cao cả hơn nữa. Các bí tích thông ban cho chúng ta điều chúng ta tin tưởng tuyên xưng : nhờ "các bí tích tái sinh", các ki-tô hữu trở nên "con cái Thiên Chúa" (x. Ga 1,12; 1Ga 3,1 ), "tham dự vào bản tính Thiên Chúa"(x. 2Pr 1,4). Khi lấy đức tin mà nhìn nhận phẩm giá mới của mình, các Ki-tô hữu được mời gọi "ăn ở xứng đáng với Tin Mừng" (x. Pl 1,27 ). Nhờ các bí tích và kinh nguyện, họ nhận được ân sủng của Đức Ki-tô và các hồng ân Chúa Thánh Thần, để có thể sống đời sống mới này.

1693.
Đức Giê-su Ki-tô luôn làm điều đẹp lòng Chúa Cha (x. Ga 8,29 ). Người luôn sống hiệp thông trọn vẹn với Cha. Cũng vậy, Người mời gọi các môn đệ sống trước thánh nhan Cha, "Đấng thấu suốt những gì bí ẩn" (x. Mt 6,6 ), để trở nên "hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48).

1694 1267.
Nhờ bí tích Thánh Tẩy ( x. Rm 6,5 ), các Ki-tô hữu được tháp nhập vào Đức Ki-tô; họ "chết đối với tội lỗi nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su" ( x. Rm 6,11 ). Như thế, họ tham dự vào sự sống của Đấng Phục Sinh. Khi bước theo Đức Ki-tô và kết hiệp với Người (x. Ga 15,5 ), các tín hữu "bắt chước Thiên Chúa, vì là con cái được Người yêu thương và sống trong tình bác ái" (Ep 5,1), bằng việc uốn nắn ý nghĩ, lời nói và việc làm của mình theo "những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 2,5) và noi gương bắt chước Người ( x. Ga 13,12-16 ).

1695.
Các Ki-tô hữu được "nên công chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô và nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa" ( x 1Cr 6,11 ), được "thánh hóa" và "được kêu gọi nên thánh" ( x. 1Cr 1,2 ), họ trở nên "đền thờ Chúa Thánh Thần" (1Cr 6,19). Chính "Thánh Thần của Chúa Con "dạy họ cầu nguyện với Chúa Cha ( x. Ga 4,6 ). Khi trở nên sự sống của họ, Người thúc đẩy họ hành động ( x. Ga 5,25 ) để mang lại "hoa quả của Thánh Thần" (Gl 5,22) nhờ thể hiện đức ái. Khi Chúa Thánh Thần chữa chúng ta khỏi các vết thương do tội lỗi, Người canh tân nội tâm chúng ta "trong Thần Khí" ( x. Ep 4,23 ), soi sáng và củng cố để chúng ta sống như "con cái sự sáng" ( x. Ep 5,8 ), nhờ "lương thiện, công chính và chân thật" trong mọi chuyện (Ep 5,9).

1696 1970.
Đường của Đức Ki-tô "dẫn đến sự sống", trong khi con đường đối nghịch "đưa đến diệt vong" (Mt 7,13) ( x. Đnl 30,15-20 ). Dụ ngôn Tin Mừng về hai con đường luôn luôn hiện diện trong huấn giáo của Hội Thánh. Nó cho thấy những quyết định luân lý quan trọng thế nào đối với phần rỗi của chúng ta. "Có hai con đường, một dẫn đến sự sống, một dẫn đến sự chết : hai bên khác nhau một trời một vực (Didaché 1,1 )".

1697.
Trong huấn giáo, cần phải làm nổi bật niềm vui gặp được cũng như những đòi hỏi mà con đường của Đức Ki-tô đặt ra (x. CT 29 ). Huấn giáo về "đời sống mới" (x. Rm 6,4 ) trong Đức Ki-tô phải là :
737tt
- Một huấn giáo về Chúa Thánh Thần, vị Thầy nội tâm về đời sống theo Đức Ki-tô, người khách trọ dịu hiền và người bạn soi sáng, hướng dẫn, sữa chữa và củng cố đời sống mới này.

1938tt.
- Một huấn giáo về ân sủng, vì chính nhờ ân sủng mà chúng ta được cứu độ, cũng chính nhờ ân sủng mà các hoạt động của chúng ta mang lại hoa trái cho đời sống vĩnh cửu.

1716tt
- Một huấn giáo về các mối phúc thật : Các mối phúc thật tóm tắt con đường của Đức Ki-tô, con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc đời đời mà lòng người hằng khao khát.

184tt.
- Một huấn giáo về tội lỗi và ơn tha thứ. Nếu không nhận biết mình là tội nhân, con người không thể nhận ra chân lý về bản thân. Chân lý này là điều kiện để hành động đúng. Nếu Thiên Chúa không ban ơn tha thứ, con người không thể chấp nhận nổi chân lý này.

1803t.t
- Một huấn giáo về các đức tính nhân bản giúp con người nhận ra nét đẹp và hấp dẫn của việc sẵn sàng làm điều tốt.

1812.
- Một huấn giáo về các nhân đức Ki-tô giáo : tin cậy, mến - được khởi hứng cách tuyệt vời bằng gương mẫu các thánh.

2067.
- Một huấn giáo về giới răn mến Chúa yêu người được khai triển trong Thập Giới.

946tt.
- Một huấn giáo về Hội Thánh, vì chính nhờ những trao đổi đa dạng "các gia sản thiêng liêng" trong mầu nhiệm "các thánh thông công" mà đời sống Ki-tô hữu được tăng trưởng, phát triển và thông truyền cho nhau .

1698 426.
Điểm qui chiếu đầu tiên và cuối cùng của một huấn giáo như vậy luôn luôn phải là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là "con đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14,6). Khi lấy đức tin mà nhìn Đức Ki-tô, các tín hữu có thể hy vọng chính Người sẽ thực hiện nơi họ những điều Người đã hứa. Còn khi yêu mến Người bằng tình yêu Người đã yêu mến họ, họ thực hiện được những việc phù hợp với phẩm giá của mình :

"Tôi xin anh em hãy coi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là thủ lãnh thật của anh em và anh em là chi thể của Người. Người thuộc về anh em như đầu thuộc về các chi thể. Mọi sự của Người là của anh em. Tinh Thần của Người, trái tim của Người, thân thể của Người, linh hồn và tất cả khả năng của Người. Anh em phải sử dụng những gì của Người như của riêng anh em để phục vụ, ca ngợi, yêu mến và tôn vinh Thiên Chúa. Anh em thuộc về Người, như chi thể thuộc về đầu. Cũng vậy, Người ao ước sử dụng tất cả những gì của anh em, như thể là của riêng Người để phục vụ và tôn vinh Cha của Người (T.Gioan Eude,Thánh Tâm Chúa Giêsu, 1,5)".

"Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô"(Pl 1,21)

ĐOẠN THỨ NHẤT
ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI - SỐNG TRONG THÁNH THẦN

1699.
Đời sống trong Thánh Thần kiện toàn ơn gọi làm người (chương một). Đó là sống trong tình yêu mến Thiên Chúa và liên đới với mọi người (chương hai). Thiên Chúa ban tặng đời sống này để đưa ta đến ơn cứu độ (chương ba).

CHƯƠNG MỘTPHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ CON NGƯỜI

1700 356 1439.
Phẩm giá con người bắt nguồn từ việc con người được sáng tạo theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (mục 1). Phẩm giá này được kiện toàn trong ơn gọi đến hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa (mục 2). Con người có trách nhiệm dùng tự do đạt tới sự viên mãn ấy (mục 3).Bằng những hành vi có ý thức (mục 4), con người quy hướng, hay không, vào những gì tốt đẹp. Thiên Chúa hứa ban và lương tâm công nhận (mục 5). Con người sử dụng toàn thể đời sống giác quan và tinh thần làm chất liệu để xây dựng bản thân và tăng trưởng nội tâm (mục 6). Nhờ ân sủng trợ giúp, con người tiến triển trên đường nhân đức (mục 7), xa lánh tội lỗi và nếu lỡ phạm tội như người con hoang đàng (x. Lc 15,11-31 ), biết phó thác vào lòng thương của Cha Trên Trời (mục 8). Nhờ đó, con người đạt tới đức ái hoàn hảo.

Mục 1CON NGƯỜI HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA

1701 359.
"Khi mặc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, Đức Ki-tô đã cho con người biết rõ về chính bản chất của họ và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ" (x. GS 22,1). Trong Đức Ki-tô "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình"(Cl 1,15) (x. 2Cr 4,4), con người được tạo dựng "theo hình ảnh và giống" Đấng Sáng Tạo. Hình ảnh này đã bị nguyên tội làm biến dạng, nay được phục hồi vẻ đẹp nguyên thủy trong Đức Ki-tô. Đấng Cứu Chuộc và Cứu Độ, và còn được ân sủng Thiên Chúa làm tăng thêm vẻ rực rỡ (x. GS,2 ).

1702 1878.
Mỗi con người đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh ấy rực sáng trong sự hiệp thông nhân vị, giống sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa (xem chương hai).

1703 363 2258.
Được ban cho một "linh hồn bất tử" ( x. GS 14 ), con người là "thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ" ( x. GS 24,3 ). Ngay từ lúc tượng thai, con người được Thiên Chúa tiền định để hưởng hạnh phúc đời đời.

1704 339 30.
Con người được tham dự vào ánh sáng và sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhờ lý trí, họ hiểu được trật tự muôn loài do Đấng Sáng Tạo thiết lập. Nhờ ý chí, họ có khả năng hướng tới sự thiện hảo đích thực. Con người đạt tới sự viên mãn của mình bằng cách "tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, là thiện" ( x. GS 15,2 ).

1705 1730.
Nhờ có linh hồn với các khả năng tinh thần là lý trí và ý chí, con người được hưởng tự do, "dấu chỉ rõ ràng nhất con người là hình ảnh Thiên Chúa" ( x. GS 17 )

1706 1776.
Nhờ lý trí, con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc đẩy mình "làm lành lánh dữ" ( x. GS 16 ). Mỗi người phải vâng theo lề luật ấy, luật đang âm vang trong lương tâm mình, và thực hiện trong tình yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Việc thực thi đời sống luân lý chứng nhận phẩm giá của con người.

1707 397.
"Ngay từ đầu lịch sử, con người bị thần Dữ cám dỗ nên đã lạm dụng tự do của mình" ( x. GS 13,1 ). Họ đã sa chước cám dỗ và làm điều ác. Dù vẫn còn ước muốn điều thiện, nhưng bản tính họ đã bị thương tổn vì nguyên tội. Con người nghiêng chiều về sự dữ và có thể sai lầm :

"Trong chính con người đã có sự chia rẽ. Vì thế, tất cả cuộc sống con người, cá nhân hay tập thể, đều biểu hiện như một cuộc chiến bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và tối tăm" ( x. GS 13,2 ).

1708 617.
Nhờ cuộc khổ nạn, Đức Ki-tô giải thoát chúng ta khỏi Xa-tan và tội lỗi; nhờ đó, chúng ta đáng được hưởng đời sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ân sủng của Người phục hồi những gì tội lỗi đã làm hư hỏng nơi chúng ta.

1709 1265 1050.
Ai tin vào Đức Ki-tô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn nghĩa tử này biến đổi con người bằng cách giúp họ sống theo gương Đức Ki-tô. Nhờ đó, họ có khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều lành. Sống kết hiệp với Đấng Cứu Độ, người môn đệ đạt tới đức ái hoàn hảo, tới sự thánh thiện. Đời sống luân lý được trưởng thành trong ân sủng, sẽ triển nở thành đời sống vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.

TÓM LƯỢC

1710.
"Đức Ki-tô cho con người biết trọn vẹn về chính họ và thiên chức rất cao cả của họ"( GS 22,1).

1711.
Được ban cho một linh hồn với các khả năng tinh thần là lý trí và ý chí, ngay từ lúc tượng thai, con người được Thiên Chúa tiền định để hưởng hạnh phúc đời đời. Con người cố gắng đạt tới sự viên mãn của mình bằng cách "tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, là thiện" ( GS 15,2 ).

1712.
Tự do đích thực là "dấu chỉ rõ ràng nhất con người là hình ảnh Thiên Chúa" ( GS 17 ).

1713.
Con người phải vâng theo luân lý thúc đẩy họ "làm lành, lánh dữ" (GS 16). Luật này âm vang trong lương tâm mỗi người.

1714.
Bản tính con người đã bị thương tổn vì nguyên tội, nên khi sử dụng tự do, họ có thể sai lầm và nghiêng chiều về sự dữ.

1715
Ai tin vào Đức Ki-tô sẽ sống cuộc đời mới trong Thánh Thần. Đời sống luân lý được lớn lên và trưởng thành trong ân sủng, sẽ triển nở trong vinh quang Nước Trời.

1983    15-02-2011 15:31:47