Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Sách GLHTCG_Phần 2_Đoạn 2_Chương 1_Mục 3

 BÍ TÍCH THÁNH THỂ

1322 1212.
Bí tích Thánh Thể hoàn tất công cuộc khai tâm Ki-tô giáo. Những người đã được bí tích Thánh Tẩy nâng lên tham dự hàng tư tế vương giả và nhờ bí tích Thêm Sức trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô cách sâu xa hơn, nay nhờ bí tích Thánh Thể được cùng với toàn thể cộng đoàn tham dự vào hy lễ của Chúa Giê-su.

1323 1402.
"Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người : đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Ki-tô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai" (SC 47).

I. THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH VÀ TỘT ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

1324 864.
Bí tích Thánh Thể là "nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Ki-tô hữu" (x. LG 11). "Những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Chúa Ki-tô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta" (PO 5).

1325 775.
"Bí tích Thánh Thể biểu thị và thể hiện chính thực chất của Hội Thánh là hiệp thông đời sống với Thiên Chúa và hiệp nhất Dân Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa thánh hóa trần gian trong Chúa Ki-tô cũng như việc con người trong Thánh Thần, tôn thờ Chúa Ki-tô và nhờ Người tôn thờ chính Chúa Cha, cùng đạt tới tột đỉnh trong bí tích Thánh Thể" (x. CdR, huấn thị "Mầu nhiệm Thánh Thể" 6).
1326 1090.
Nhờ cử hành bí tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hiệp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào đời sống vĩnh cửu, "khi Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi sự"(1Cr 15,28).

1327 1124.
Bí tích Thánh Thể vừa đúc kết vừa tổng hợp đức tin công giáo : "Cách suy nghĩ của chúng ta phù hợp với bí tích Thánh Thể, và ngược lại bí tích Thánh Thể xác nhận cách suy nghĩ của chúng ta" (x. Thánh I-rê-nê, Chống lạc giáo 4,18,5).

II. BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐƯỢC GỌI BẰNG NHỮNG DANH HIỆU NÀO ?

1328.
Bí tích Thánh Thể vô cùng phong phú nên được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau, mỗi danh hiệu gợi lên một số khía cạnh :

2637 1082 1359.
Bí tích Thánh Thể được gọi là Lễ Tạ Ơn, vì đây chính là việc tạ ơn Thiên Chúa. Tân Ước dùng các từ Hy Lạp eucharistein (x. Lc 22,19; 1Cr 11,24) và eulogein (x. Mt 26,26; Mc 14,22), gợi nhớ lại việc người Do Thái, đặc biệt trong bữa ăn, ca ngợi Thiên Chúa vì những kỳ công Người đã thực hiện : sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.

1329 1382.
Bí tích Thánh Thể được gọi là Bữa Ăn của Chúa, vì Hội Thánh tưởng niệm bữa Tiệc Ly Chúa cùng ăn với các môn đệ tối hôm trước ngày chịu nạn. Bữa ăn này cũng nói lên sự tiền dự vào Bữa Tiệc Cưới Con Chiên tại Giê-ru-sa-lem trên trời.
790.
Bí tích Thánh Thể được gọi là LễBẻ Bánh, vì trong bữa Tiệc Ly (x.Mt 26,26; 1Cr 11,24). Chúa Giê-su dùng nghi thức đặc thù của người Do Thái để chúc tụng Thiên Chúa và chia bánh như người chủ tiệc thường làm (x. Mt 14,19; 15,16; Mc 8,6;19). Nhờ việc bẻ bánh, các môn đệ nhận ra Chúa sau khi Người phục sinh (x.Lc 24,13-15). Vì vậy, các Ki-tô hữu đầu tiên gọi những buổi cử hành thánh lễ là Lễ Bẻ Bánh (x.Cv 2,42.46; 20,7.11). Với thuật ngữ này, họ muốn nói : tất cả những ai cùng ăn một tấm bánh được bẻ ra là Chúa Ki-tô, thì được hiệp thông với Người và hợp thành thân thể duy nhất trong Người (x. 1Cr 10,16-17).
1384.
Bí tích Thánh Thể còn được thánh Phao-lô gọi là Đồng Bàn (Synaxis), vì được cử hành trong cộng đoàn tín hữu. Cộng đoàn Thánh Thể là hình ảnh hữu hình của Hội Thánh (x. 1Cr 11,17-34).

1330 1341.
Bí tích Thánh Thể được gọi là cuộc Tưởng Niệm Chúa Giê-su chịu chết và sống lại.
2643 614.
Bí tích Thánh Thể được gọi là Hy Lễ Thánh, vì hiện tại hóa hy lễ duy nhất của Chúa Cứu Thế và bao gồm lễ vật của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là "hy tế thánh lễ", "hy lễ ca ngợi" (x. Dt 13,15; x. Tv 116, 13.17), hy lễ thiêng liêng (x. 1Pr 2,5), hy lễ tinh tuyền (x. Ml 1.11) và thánh thiện, vì hoàn tất và vượt trên mọi hy lễ trong Cựu Ước.
1169.
Bí tích Thánh Thể được gọi là phụng vụ thánh thiện và thần linh, vì là tâm điểm và cách diễn tả cô đọng nhất của toàn thể phụng vụ Hội Thánh. Cũng vì thế, bí tích Thánh Thể được gọi là Mầu Nhiệm Rất Thánh, Bí Tích Cực Thánh, vì là bí tích trên các bí tích. Chúng ta dùng thuật ngữ Thánh Thể để chỉ bánh thánh được cất giữ trong Nhà Tạm.

1331 950 948 1405.
Bí tích Thánh Thể còn được gọi là bí tích Hiệp Thông, vì kết hợp chúng ta với Chúa Ki-tô, Đấng ban Mình và Máu Người để tất cả trở nên một thân thể (x. 1Cr 10, 16-17). Bí tích Thánh Thể cũng được gọi là Sự Thánh (x. Giáo huấn các Tông đồ 8,13.12; Didaché 9,5; 10,6) theo ý nghĩa đầu tiên của "mầu nhiệm các thánh thông công" được tuyên xưng trong kinh Tin Kính của các tông đồ. Ngoài ra, Mình Thánh Chúa còn được gọi là bánh các thiên thần, bánh bởi trời, thuốc trường sinh (x. Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, thư Ep.20,2), của ăn đàng...

1332 849.
Cử hành bí tích Thánh Thể được gọi là Thánh Lễ, Lễ Mi-sa, do từ la-tinh missio nghĩa là sai đi. Thánh lễ kết thúc với lời Hội Thánh sai các tín hữu đi vào đời, để họ thực thi thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

III. BÍ TÍCH THÁNH THỂ TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ

Dấu chỉ bánh và rượu

1333 1350 1147 1148.
Trong thánh lễ, nhờ lời Đức Ki-tô và lời Hội Thánh kêu cầu Chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Ki-tô. Vâng lệnh của Chúa và để tưởng niệm Chúa cho đến ngày Người quang lâm, Hội Thánh làm lại điều Chúa đã làm hôm trướùc ngày chịu nạn : "Người cầm lấy bánh... "Người cầm lấy chén rượu...". Bánh và rượu dù đã trở nên Mình và Máu Chúa Ki-tô cách mầu nhiệm, vẫn là dấu chỉ cho sự thiện hảo của công trình sáng tạo. Do đó, khi dâng lễ vật, chúng ta tạ ơn Đấng Sáng Tạo vì đã ban bánh và rượu (x. Tv 104,13-15), tuy "do công lao của con người", nhưng trước hết là "hoa mầu ruộng đất" và "sản phẩm từ cây nho", tức là những ân huệ của Đấng Sáng Tạo. Hội Thánh coi "bánh và rượu" (St 14,18) do Men-ki-sê-đê, vị vua kiêm tư tế, dâng lên Thiên Chúa, là tiên trưng cho lễ vật của Hội Thánh (x. MR, Kinh Tạ Ơn Rô-ma 95).

1334 1150 1363.
Trong Cựu Ước, bánh và rượu được chọn trong số hoa trái đầu mùa của ruộng đất, để dâng làm hiến lễ tạ ơn Đấng Sáng Tạo. Trong khung cảnh cuộc Xuất Hành, bánh và rượu mang một ý nghĩa mới : "bánh không men" người Do Thái hằng năm vẫn dùng trong lễ Vượt Qua, nhắc nhớ ngày được giải thoát và vội vã ra đi khỏi Ai Cập; kỷ niệm về Man-na trong hoang địa luôn giúp Ít-ra-en nhớ rằng : "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Đnl 8,3); cuối cùng, bánh ăn hàng ngày là sản phẩm của Đất Hứa, là bằng chứng Thiên Chúa hằng trung tín giữ lời đã hứa. Rượu diễn tả niềm vui ngày lễ hội, nhưng rượu trong "chén chúc tụng" (1 Cr 10,16) vào cuối bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, có chiều kích cánh chung, chất chứa niềm hy vọng Đấng Mê-si-a sẽ đến phục hưng Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể, bằng cách đem lại một ý nghĩa mới và vĩnh viễn cho lời chúc tụng đọc trên bánh và rượu.

1335 1151.
Hội Thánh nhận ra các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi "Chúa Giê-su đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát để nuôi sống đám đông", tiên báo sự phong phú của tấm bánh duy nhất là "Thánh Thể" (x. Mt 14,13-21; 15,32-39). Phép lạ hóa nước thành rượu ở Ca-na (x.Ga 2,11) là dấu chỉ báo trước "Giờ Con Người được tôn vinh". Dấu chỉ này còn loan báo Tiệc Cưới trong Nước Thiên Chúa, nơi các tín hữu sẽ uống rượu mới (x. Mc 14,25) đã trở thành Máu Chúa Ki-tô.

1336 1327.
Khi Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn, cũng như khi Người công bố lần đầu về bí tích Thánh Thể, các môn đệ không chấp nhận; đa số môn đệ thắc mắc : "Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi ?" (Ga 6,60). Thánh Thể và Thánh Giá là những viên đá gây vấp ngã cho mọi người. Đây là một mầu nhiệm luôn tạo cớ gây chia rẽ "cả anh em cũng muốn bỏ đi sao?" (Ga 6,67). Câu hỏi của Chúa vẫn vang dội qua các thời đại như lời yêu thương mời gọi mọi người nhận biết : "Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh" (Ga 6,68), và tin tưởng đón nhận hồng ân Thánh Thể, cũng là đón nhận chính Người.

Thiết lập bí tích Thánh Thể

1337 610 611.
Đức Giê-su yêu thương những kẻ thuộc về mình và yêu thương họ đến cùng. Khi biết Giờ đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người rửa chân cho họ trong bữa Tiệc Ly và ban cho họ giới răn yêu thương (x. Ga 13,1-17). Để trao lại cho họ bảo chứng tình yêu này và cho họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của mình, Người thiết lập bí tích Thánh Thể để tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Người và truyền lệnh cho các tông đồ mà "Người đã đặt làm tư tế của Giao Ước Mới, cử hành bí tích này cho đến khi Người lại đến" (x. CĐ Trentô : DS 1740) .

1338.
Các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm và thánh Phao-lô lưu truyền cho chúng ta bản tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể, trong khi thánh Gio-an thuật lại những lời của Chúa Giê-su tại hội đường Ca-pha-na-um, những lời chuẩn bị cho việc thiết lập bí tích Thánh Thể : Đức Ki-tô tự xưng mình là Bánh Hằng Sống từ trời xuống (x. Ga 6).

1339 1169.
Đức Giê-su chọn lễ Vượt Qua để thực hiện điều Người báo trước ở Ca-pha-na-um là ban Mình và Máu Người cho môn đệ :

"Đã đến ngày lễ Bánh Không men, ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua. Đức Giê-su sai Phê-rô, Gio-an đi và dặn : "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua... Các ông ra đi... và dọn tiệc Vượt Qua. Khi tới giờ ăn tiệc Vượt Qua, Đức Giê-su vào bàn với các tông đồ. Người nói với các ông : "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa"... Rồi Người cầm lấy tấm bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói : "Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm như Thầy vừa mới làm, mà tưởng nhớ đến Thầy". Rồi tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói : "Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em" (Lc 22,7-8;13-16;19-20) (x. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; 1Cr 11,23-26) .

1340 1151 677.
Trong bữa Tiệc Ly, khi Đức Giê-su cùng mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ, Người đã đem lại ý nghĩa trọn vẹn cho lễ Vượt Qua của người Do Thái. Tiệc Ly tiên trưng cho cuộc Vượt Qua mới : trong cuộc tử nạn và phục sinh, Đức Giê-su vượt qua để về cùng Chúa Cha. Cuộc Vượt Qua này được cử hành trong bí tích Thánh Thể. Bí tích này hoàn tất lễ Vượt Qua của người Do Thái và tiên báo cuộc Vượt Qua cuối cùng của Hội Thánh vào vinh quang của Nước Trời.

"Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy"

1341 611
Khi Đức Giê-su truyền lặp lại những cử chỉ và lời nói của mình "cho tới khi Người lại đến" (1Cr 11,26), Người đòi hỏi không những phải nhớ đến Người và những gì Người đã làm, nhưng còn muốn các tông đồ và những người kế nhiệm phải cử hành phụng vụ tưởng niệm cuộc sống, cái chết, việc phục sinh và lên trời về với Chúa Cha của Người để cầu bầu cho chúng ta.

1342 2624.
Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh của Chúa. Sách Công Vụ Tông Đồ tường trình về Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem như sau :

"Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng... ngày ngày siêng năng tới đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ" (Cv 2,42.46)

1343 1166,2177.
Đặc biệt các Ki-tô hữu tụ họp "để bẻ bánh"(Cv 20,7) vào "ngày thứ nhất trong tuần", nghĩa là ngày Chúa Nhật, ngày Chúa Phục Sinh. Từ đó, việc cử hành bí tích Thánh Thể vẫn tiếp nối với cùng một cấu trúc cơ bản trong toàn Hội Thánh cho đến ngày nay. Bí tích Thánh Thể luôn là trung tâm của đời sống Hội Thánh.

1344 1404.
Như vậy, qua các thánh lễ, dân lữ hành của Thiên Chúa công bố mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su "cho tới khi Người lại đến" (1Cr 11,26) và "theo con đường hẹp của thập giá" (x.AG 1), để tiến vào bàn tiệc thiên quốc; bấy giờ, những người được tuyển chọn sẽ đồng bàn trong Nước Chúa.

IV CỬ HÀNH PHỤNG VỤ THÁNH THỂ

Thánh lễ qua mọi thời đại

1345.
Từ thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh Giút-ti-nô tử đạo về những diễn tiến chính của một thánh lễ. Cho đến nay, diễn tiến này vẫn không thay đổi trong các Nghi Lễ Phụng Vụ. Thánh Giút-ti-nô viết bản văn này vào năm 155, để giải thích cho hoàng đế La mã An-to-ni-us Pi-us (138-161) về những gì người Ki-tô hữu cử hành :

Vào ngày Mặt Trời, như người ta thường gọi, những người tín hữu trong thành phố hay ở nông thôn đều họp lại một nơi.

Tùy thời gian cho phép, người ta đọc bút tích của các tông đồ và sách các ngôn sứ.

Sau khi đọc xong, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người sống theo các giáo huấn và gương lành tốt đẹp này.

Sau đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyên lên Thiên Chúa cho chính chúng tôi... và cho mọi người khác trên thế giới, để xứng đáng trở thành những người công chính và trung thành tuân giữ lề luật ngay trong cuộc sống hầu đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.

Sau lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc bình an cho nhau.

Tiếp đến, một tín hữu mang bánh và một chén rượu có pha nước đến cho người chủ sự.

Vị chủ sự cầm lấy bánh rượu, nhân danh Chúa Con và Thánh Thần, dâng lời tán tụng và tôn vinh Chúa Cha là Chúa tể càn khôn. Ông đọc một lời tạ ơn dài về việc Thiên Chúa cho chúng ta xứng đáng lãnh nhận các hồng ân.

Khi vị chủ sự kết thúc các lời nguyện và kinh tạ ơn, mọi người hiện diện đều đồng thanh đáp : A-men.

Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân thưa A-men, các vị mà chúng tôi gọi là phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước đã "trở thành Thánh Thể" cho mọi người hiện diện hưởng dùng và đem về cho những người vắng mặt (x. Thánh Giút-ti-nô,Hộ giáo 1,65).

1346.
Thánh lễ diễn tiến theo một cấu trúc cơ bản được duy trì từ nhiều thế kỷ cho đến nay. Thánh lễ chia làm hai phần nhưng là một thể thống nhất :
- Tập họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện giáo dân;
- Phụng vụ Thánh Thể với việc tiến dâng bánh ruợu; truyền phép với lời kinh tạ ơn và hiệp lễ.
103.
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh thể là "một hành vi phụng thờ duy nhất" (x. SC 56). Bàn tiệc Thánh Thể vừa là bàn tiệc Lời Chúa, vừa là bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô" (x DV 21).

1347.
Phải chăng đó cũng là bữa tiệc Vượt Qua Đức Giê-su phục sinh đã dùng với các môn đệ ? Trong khi đi đường, Người giải thích cho họ những lời Thánh Kinh và khi ngồi vào bàn ăn, Người "cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ" (x. Lc 24,13-25).

Diễn tiến việc cử hành

1348 1140 1548.
Cộng đoàn tập họp. Các Ki-tô hữu tập họp lại một nơi để cử hành thánh lễ. Chính Đức Ki-tô đứng đầu cộng đoàn; Người chủ sự buổi lễ. Người là Thượng tế của Giao Ước Mới. Dù ẩn dạng, nhưng chính Người chủ trì mọi thánh lễ. Thay mặt Người, vị giám mục hay linh mục, "trong cương vị Đức Ki-tô Thủ lãnh", sẽ chủ sự cộng đoàn, giảng dạy sau các bài đọc, đón nhận lễ vật, dâng tiến và đọc kinh nguyện Thánh thể. Mọi người đều tham gia cách tích cực vào thánh lễ, mỗi người một cách : người đọc thánh thư, kẻ mang lễ vật, người trao Mình Thánh và toàn dân đều thưa A-men thể hiện sự tham gia của mình.

1349 1184.
Phụng vụ Lời Chúa gồm các bài đọc rút ra từ "các sách ngôn sứ", nghĩa là từ Cựu Ước, và từ các "ký ức của tông dồ", nghĩa là từ các thư và Phúc Âm. Bài giảng giúp các tín hữu nhận thức đây là Lời Chúa (x. 1Tx 2,11): phải đón nhận và đem ra thực hành trong đời sống. Tiếp đến là lời nguyện tín hữu cầu cho mọi người, như lời thánh Phao-lô dạy : "Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền" (x. 1Tm 2,1-2).

1350 1359 614.
Chuẩn bị lễ phẩm. Người ta mang, đôi khi rước cách long trọng, bánh và rượu lên bàn thờ. Vị linh mục nhân danh Đức Ki-tô, dâng lên Thiên Chúa lễ vật sẽ trở thành Mình Máu Đức Ki-tô. Đây chính là cử chỉ của Đức Ki-tô, trong bữa Tiệc Ly, "cầm lấy bánh và chén rượu". "Chỉ có Hội Thánh trong lời kinh tạ ơn mới có quyền dâng lên Đấng Sáng Tạo lễ vật tinh tuyền được chọn giữa vạn vật" (T. Irênê, chông lạc giáo).Việc dâng lễ vật trên bàn thờ lặp lại cử chỉ của Men-ki-sê-đê và đặt tặng phẩm của Tạo Hóa vào tay Đức Ki-tô. Trong hy tế của mình, Đức Giê-su kiện toàn mọi cố gắng tế lễ của con người.

1351 1397 2186.
Từ thuở ban đầu, khi mang bánh và rượu đến cử hành thánh lễ, các Ki-tô hữu cũng mang theo tặng phẩm để giúp đỡ những người túng thiếu. Tập tục "quyên góp" (x. 1Cr 16,1)xưa nay xuất phát từ mẫu gương của Đức Ki-tô, Đấng hoá nên nghèo để biến chúng ta thành kẻ giàu sang
(x. 2Cr 8,9) :

"Những người hằng tâm hằng sản sẽ tùy ý đóng góp và trao lại cho vị chủ sự. Vị chủ sự sẽ phân phát để giúp đỡ các trẻ mồ côi, người goá bụa; người bệnh tật hay kẻ thiếu thốn; những tù nhân, những người mới đến lập nghiệp; tóm lại, vị chủ sự phải chăm sóc mọi kẻ cần được giúp đỡ" (Thánh Giút-ti-nô, Hộ giáo 1,67,6).

1352.
Kinh nguyện Thánh Thể. Trung tâm và cao điểm của toàn bộ cử hành là Kinh Nguyện Thánh Thể, gồm lời Kinh Tạ Ơn và lời Truyền Phép :
559
Trong kinh Tiền tụng, nhờ Đức Ki-tô trong Chúa Thánh Thần, Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn về tất cả công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá. Toàn thể cộng đoàn hiệp với Hội Thánh trên trời, gồm các thiên thần và chư thánh, không ngừng tán tụng Thiên Chúa Chí Thánh.

1353 1105.
Trong lời kinh "xin ban Thánh Thần", Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha ban Thánh Thần xuống trên bánh rượu; để nhờ quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Đức Giê-su Ki-tô và để những người lãnh nhận Thánh Thể trở thành một thân thể và một tinh thần duy nhất (Một số Nghi lễ phụng vụ đặt lời kinh "xin ban Thánh Thần" sau phần Tưởng Niệm).
1375.
Trong phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể, nhờ hiệu lực của lời và cử chỉ Đức Ki-tô, cũng như quyền năng của Thánh Thần, bánh rượu trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô, lễ vật chính Người đã dâng trên thập giá.

1354 1103.
Tiếp đến là phần tưởng niệm, Hội Thánh tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn, phục sinh và cuộc quang lâm vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô; Hội Thánh dâng lên Chúa Cha lễ vật của Con Chí Ái, lễ vật giao hoà chúng ta với Người.
954.
Các lời chuyển cầu cho thấy hy lễ tạ ơn được cử hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh cả thiên quốc lẫn trần gian, Hội Thánh của những kẻ sống cũng như người đã qua đời; trong sự hiệp thông với các mục tử của Hôềi Thánh, Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục địa phận, hàng linh mục cũng như phó tế; và trong sư hiệp thông với các giám mục toàn cầu cùng với Giáo Hội của các ngài.

1355 1382.
Lời nguyện Chúa dạy là kinh Lạy Cha và nghi thức bẻ bánh đi trước phần hiệp lễ. Trong phần hiệp lễ, các tín hữu lãnh nhận "bánh bởi trời" và "chén cứu độ", là chính Mình Máu Thánh Đức Ki-tô, Đấng tự hiến "để cho thế gian được sống" (Ga 6,51) :
1327.
Ngày xưa các tín hữu gọi bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa là bánh và rượu "đã được thánh hiến", nên "chúng tôi gọi lương thực này là Thánh Thể". Chỉ có người đón nhận giáo lý chân chính với chúng tôi, đã lãnh nhận phép rửa để được tha tội và tái sinh, phải sống tuân theo luật Chúa, mới được tham dự vào bàn tiệc này" (Thánh Giút-ti-nô, Hộ giáo 1,66,1-2).

V. HY TẾ BÍ TÍCH : TẠ ƠN, TƯỞNG NIỆM, HIỆN DIỆN

1356.
Ngay từ thuở ban đầu, các Ki-tô hữu đã cử hành thánh lễ với một hình thức cơ bản không thay đổi, dù có trải qua bao nhiêu thời gian và nghi thức phụng vụ khác nhau. Họ thực thi như thế vì cảm thấy có trách nhiệm đối với mệnh lệnh Chúa đã trao trong đêm trước khi Người chịu khổ nạn : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (1 Cr 11,24-25).

1357.
Chúng ta chỉ chu toàn mệnh lệnh của Chúa, khi cử hành lễ tưởng niệm hy tế của Người. Chúng ta dâng lên Chúa Cha những gì mà chính Người đã ban cho chúng ta : nhờ lời của Đức Ki-tô và quyền năng của Thánh Thần, những tặng phẩm của thiên nhiên là bánh và rượu trở nên Mình và Máu Đức Ki-tô. Như thế, Đức Ki-tô thực sự hiện diện và hiện diện một cách huyền nhiệm.

1358.
Do đó, chúng ta sẽ phải xem bí tích Thánh Thể là :

 - lời tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa Cha;
- tưởng niệm hy tế của Đức Ki-tô và Nhiệm Thể của Người;
- sự hiện diện của Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Lời và Thánh Thần của Người.

Tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha

1359 293.
Thánh Thể là bí tích cứu độ được Đức Ki-tô hoàn tất trên thập giá, đồng thời cũng là hy tế tạ ơn và ca ngợi công trình của Đấng Sáng Tạo. Trong hy tế Thánh Thể, Đức Ki-tô dâng toàn thể công trình sáng tạo được Thiên Chúa yêu thương lên trước nhan thánh Chúa Cha qua cái chết và sự phục sinh của mình. Nhờ Người, Hội Thánh có thể dâng hy tế tạ ơn và ca ngợi vì tất cả những chân thiện mỹ Thiên Chúa đã làm cho vũ trụ và cho con người.

1360 1083.
Bí tích Thánh Thể là hy tế tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng tri ân vì mọi điều thiện hảo Người đã thực hiện qua công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích Thánh Thể trước hết là "hy tế tạ ơn".

1361 294.
Bí tích Thánh Thể còn là hy tế ca ngợi, nhờ đó Hội Thánh dâng lên lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa nhân danh toàn thể thọ sinh. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể thực hiện cách trọn hảo nhờ Đức Ki-tô : Người hiệp nhất mọi tín hữu với Người, với lời ca ngợi và chuyển cầu của Người; đến nỗi, hy tế ca ngợi Chúa Cha phải được dâng lên nhờ Người, với Người để được chấp nhận trong Người.

Tưởng niệm hy tế của Đức Ki-tô và của Thân Thể Người là Hội Thánh

1362 1103.
Bí Tích Thánh Thể Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, hiện tại hóa và dâng tiến cách bí tích hy tế duy nhất của Người trong Phụng Vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong các kinh nguyện Thánh Thể, sau phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể và phần hiến thánh, bao giờ cũng có một kinh Tưởng Niệm.

1363 1099.
Theo Thánh Kinh, Tưởng Niệm không chỉ là nhớ lại những biến cố đã qua, mà còn là loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho nhân trần. Khi cử hành phụng vụ, những biến cố này hiện diện sống động giữa cộng đoàn. Dân Ít-ra-en hiểu cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập như sau : khi dân Chúa cử hành lễ Vượt Qua, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện diện sống động trong ký ức, để họ căn cứ vào đó mà điều chỉnh cuộc sống của mình.

1364 611 1085.
Sang thời Tân Ước, Tưởng Niệm mang một ý nghĩa mới. Khi cửố hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng nhớ cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô; lúc đó, cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Ki-tô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện" (LG 3).

1365 2100 1846.
Vì là lễ Tưởng Niệm cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, Thánh Thể cũng là một hy lễ. Tính chất hy tế thể hiện rõ trong những lời truyền phép : "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước Mới sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội"(Lc 22, 19-20). Trong bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá vì chúng ta, ban chính máu Người đã đổ ra "cho mọi người được tha tội" (Mt 26,28).

1366 613.
Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệmban phát các hiệu qủa của hy tế này:

"Đức Ki-tô là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, đã tự hiến trên bàn thờ thập giá, cho Chúa Cha một lần dứt khoát. Người đã chết như Vị Chuyển Cầu cho chúng ta, để đem lại ơn cứu chuộc muôn đời cho nhân loại. Tuy nhiên, chức tư tế của Đức Ki-tô không chấm dứt khi Người chết (x. Dt 7,24.27). Trong bữa Tiệc Ly, vào đêm bị nộp (1Cr 11,23), Người muốn để lại cho Hội Thánh, Hiền Thê yêu dấu của Người, một hy tế hữu hình, vì bản tính con người cần như vậy. Hy tế đẫm máu đã được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá này được tái diễn và tưởng niệm cho đến tận thế (x. 1Cr 11,23), đem lại sức mạnh cứu độ tha thứ mọi tội lỗi chúng ta hằng phạm" (x. CĐ Trentô : DS 1740).

1367 1545.
Hy tế của Đức Ki-tô và hy tế Thánh Thể chỉ là một. Lễ vật duy nhất là Đức Ki-tô, xưa chính Người dâng trên thập giá, nay được dâng lên nhờ thừa tác vụ linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng : "Vì trong hy lễ thần linh được cử hành trong thánh lễ, Chính Đức Ki-tô, Đấng đã một lần dâng mình bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, cũng hiện diện và được sát tế mà không đổ máu, nên hy tế này thực sự có giá trị đền tội." (CONCILUM TRIDENTINUM, Sess. 22a. Doctrina de ss. Missac sacrificio, c.2: DS 1743)

1368 618, 2031 1109.
Thánh lễ cũng là hy tế của Hội Thánh. Là Thân Thể của Đức Ki-tô, Hội Thánh tham dự vào lễ tế của Đức Ki-tô là Đầu. Cùng với Người, Hội Thánh cũng được dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Hội Thánh hiệp nhất với Đức Ki-tô để chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Trong thánh lễ, hy tế của Đức Ki-tô trở thành hy tế của mọi chi thể trong Thân Thể. Đời sống, lời ca ngợi, đau khổ, kinh nguyện, công việc của các tín hữu đều được kết hợp với Đức Ki-tô và với lễ dâng toàn hiến của Người; nhờ đó tất cả có được một giá trị mới. Hy tế của Đức Ki-tô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho muôn thế hệ Ki-tô hữu khả năng được kết hợp với lễ dâng của Người.

Trong các hang toại đạo, các Ki-tô hữu thường trình bày Hội Thánh dưới hình một phụ nữ đang cầu nguyện, hai cánh tay mở rộng trong tư thế cầu khẩn. Như Đức Ki-tô dang tay trên thập giá, Hội Thánh dâng mình và chuyển cầu cho toàn thể nhân loại, nhờ Người, với Người và trong Người.

1369 834,882 1561 1566.
Toàn thể Hội Thánh kết hiệp với Đức Ki-tô trong việc hiến dâng và chuyển cầu. Được trao phó thừa tác vụ của Phê-rô trong Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng liên kết với mọi cử hành thánh lễ; trong thánh lễ, ngài được nhắc đến như là dấu chỉ và là người phục vụ sự hiệp nhất của Hội Thánh toàn cầu. Vị giám mục giáo phận luôn chịu trách nhiệm về thánh lễ, dù thánh lễ do một linh mục cử hành; ngài được nhắc đến trong thánh lễ như thủ lãnh của giáo phận, giữa hàng linh mục và phó tế. Cộng đoàn còn cầu nguyện cho các thừa tác viên đang dâng lễ cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn :

"Thánh lễ chỉ được coi là hợp pháp khi cử hành dưới sự chủ tọa của giám mục hay người được ngài giao trách nhiệm" ( Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a).

"Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hợp với hy tế của Đức Ki-tô, Đấng Trung Gian Duy Nhất. Nhân danh Hôềi Thánh, hy tế này nhờ tay các linh mục được hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa lại đến" (PO 2).

1370 956 969.
Không phải chỉ những tín hữu còn tại thế, mà cả những vị được hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hợp với hy tế của Đức Ki-tô. Hội Thánh dâng lễ trong tâm tình kính nhớ và "hiệp thông cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, các tông đồ và toàn thể các thánh". Trong thánh lễ, cùng với Đức Ma-ri-a, Hội Thánh như đang đứng dưới chân Thánh Giá, kết hợp với Đức Ki-tô trong việc hiến dâng và chuyển cầu.

1371 858,1689, 1032.
Thánh lễ cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, "những người đã chết trong Đức Ki-tô và chưa được thanh luyện trọn vẹn", để họ được vào hưởng ánh sáng và bình an của Đức Ki-tô :

"Con hãy chôn xác mẹ bất cứ đâu, đừng lo lắng gì chuyện đó. Tất cả những gì mẹ xin con là : dù ở đâu, con hãy nhớ tới mẹ khi dự Tiệc Thánh" (Lời thánh nữ Mô-ni-ca trối cho anh em thánh Âu-Tinh, Tự Thuật 9,11,27.).

"Trong kinh Tạ Ơn, chúng ta cầu cho các giáo hoàng và giám mục đã qua đời, nói chung, cầu cho mọi người đã an nghỉ. Chúng ta tin rằng các linh hồn sẽ được hưởng nhiều ơn ích nếu chúng ta cầu cho họ khi Đức Ki-tô, Chiên Hy Tế cực thánh cực trọng đang hiện diện... Khi khẩn cầu cho những người đã an giấc, dù họ còn là tội nhân, chúng ta dâng lên Thiên Chúa chính Đức Ki-tô, Đấng đã hiến mình vì tội lỗi chúng ta, để Người giao hòa họ và chúng ta với Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người" (Thánh Sy-ri-lô, giám mục Giê-ru-sa-lem, Giáo lý thần thiêng 5,9.10.)

1372 1140.
Giáo lý trên thúc giục chúng ta tham dự trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng Cứu Chuộc khi cử hành thánh lễ. Thánh Augustinô tóm tắt giáo lý này như sau :

"Toàn thể cộng đoàn được cứu chuộc tức là cộng đoàn dân thánh hay thành đô thiên quốc, được dâng lên Thiên Chúa như một hy tế phổ quát nhờ vị Thượng tế, Đấng mang thân nô lệ và tự hiến vì chúng ta trong cuộc khổ nạn, nhờ đó chúng ta trở nên thân thể của vị Thủ lãnh chí tôn... Đây là hy tế của các Ki-tô hữu: "Tuy nhiều nhưng chỉ một thân thể trong Đức Ki-tô" (Rm 12,5). Hội Thánh vẫn hiến dâng hy tế này trong bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Hội Thánh nhận biết rằng qua của lễ tiến dâng lên, Hội Thánh cũng dâng chính mình" (Thành đô thiên quốc 10,6).

Đức Ki-tô hiện diện nhờ quyền năng của Lời Người và Thánh Thần

1373 1088.
"Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta" (Rm 8,34). Đối với Hội Thánh, Người hiện diện dưới nhiều hình thức : trong Lời Chúa; trong kinh nguyện của Hội Thánh, "ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy" (Mt 18,20); trong những người nghèo khổ, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46); trong các bí tích do Người thiết lập; trong hy tế thánh lễ và nơi thừa tác viên; "nhất là Người hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể" (SC 7).

1374 1211.
Cách thức Đức Ki-tô hiện diện dưới hai hình Thánh Thể là cách độc nhất vô nhị. Người đặt bí tích Thánh Thể trên mọi bí tích để trở nên "như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi bí tích" (Thánh Tô-ma Aquinô, Tổng luận Thần học 3,73,3). Trong bí tích cực thánh, "có sự hiện diện đích thực, thực sự và bản thể của Mình và Máu Đức Ki-tô, cùng với linh hồn và thiên tính của Người, nghĩa là Đức Ki-tô trọn vẹn" (x. CĐ Trentô, DS 1651). "Sự hiện diện này được g 2890    15-02-2011 10:28:27