Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Sách GLHTCG_Lời Mở Đầu

"Lạy Cha...sự sống đời đời, chính là (họ) nhận biết Cha, Đấ ng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô" (Ga 17,3) "Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta,... muốn cho mọi người được cứu và nhận biết chân lý" (1Tm 2,3-4). "Ngoài danh Đức Giê-su, dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mới được cứu độ" (Cv 4,12)

I. SỰ SỐNG CON NGƯỜI - NHẬN BIẾT VÀ YÊU MẾN THIÊN CHÚA

1.         Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện và Hạnh Phúc khôn lường. Theo ý định nhân hậu, Người đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông phần sự sống vĩnh phúc. Do đó, Người đã đến với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Người. Thiên Chúa triệu tập mọi người đã bị tội lỗi phân tán để hợp nhất thành gia đình của Người là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi tới thời viên mãn, Người đã cử Chúa Con đến làm Đấng chuộc tội và cứu độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người trở nên nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần, và do đó, được thừa kế đời sống hạnh phúc của Ngài.

2.         Để cho tiếng gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Đức Ki-tô đã sai phái các tông đồ do Người tuyển chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng : "Hãy đi, và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,19-20). Vững tin vào sứ mạng ấy, các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cộng tác với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (Mc 16, 20).

3.         Những ai đã nhờ ơn Chúa giúp đón nhận lời kêu gọi của Đức Ki-tô và tự nguyện đáp ứng, cũng được tình yêu Đức Ki-tô thúc đẩy đi loan báo Tin Mừng khắp nơi trên thế giới. Kho tàng đã được lãnh nhận từ các tông đồ này đã được các người kế nhiệm bảo toàn một cách trung tín. Mọi ki-tô hữu cũng được kêu gọi truyền đạt kho tàng ấy từ thế hệ này đến thế hệ khác, bằng lời rao giảng đức tin, bằng cách sống đức tin trong tình chia sẻ huynh đệ, và diễn tả đức tin đó trong phụng vụ và kinh nguyện ( Cv 2,42).

II. TRUYỀN ĐẠT ĐỨC TIN - VIỆC HUẤN GIÁO

4.         Ngay từ thời Hội Thánh sơ khai, thuật ngữ "huấn giáo" được dùng để gọi toàn bộ các nỗ lực được huy động trong Hội Thánh để đào tạo môn đệ, để giúp con người tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, hầu nhờ đức tin , họ được sống nhân danh Người, để giáo dục và chỉ dẫn họ trong cuộc sống đời này, và như thế, xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô(CT 1; 2)

5.         "Huấn giáo là giáo dục đức tin cho trẻ em, thanh niên và người lớn, gồm đặc biệt là việc giảng dạy giáo lý Ki-tô giáo một cách có tổ chức và hệ thống, nhằm khai tâm họ vào cuộc sống ki-tô hữu sung mãn"(CT 18).

6.         Trong sứ mạng mục vụ của Hội Thánh, có một số yếu tố liên hệ đến huấn giáo, chuẩn bị cho huấn giáo hoặc bắt nguồn từ huấn giáo, như: loan báo Tin Mừng sơ khởi tức là rao giảng của vị thừa sai để khơi dậy đức tin; nghiên cứu những lý lẽ để biện minh cho đức tin; sống tích cực đời ki-tô hữu, cử hành các bí tích, hội nhập vào cộng đoàn Hội Thánh, làm chứng bằng hoạt động tông đồ và truyền giáo. Dù không lẫn lộn, nhưng huấn giáo vẫn đi đôi với những yếu tố này...( CT 18 )

7.         "Huấn giáo liên kết mật thiết với toàn bộ đời sống của Hội Thánh. Chính nhờ Huấn giáo, Hội Thánh không những phát triển về địa dư và số lượng mà nhất là sự tăng trưởng bên trong và đáp ứng ý định cứu độ của Thiên Chúa"(CT 13)

8.         Những thời kỳ Hội Thánh được canh tân cũng là những thời điểm nổi bật về huấn giáo. Thực vậy, vào thời các giáo phụ, người ta thấy có những vị thánh Giám Mục dành một phần quan trọng của thừa tác vụ cho huấn giáo. Đó là các thánh Sy-ri-lô Giám mục Giê-ru-sa-lem và Gio-an Kim Khẩu, Am-rô-xi-ô và Âu-Tinh, cùng với nhiều giáo phụ khác. Các ngài đã để lại những tác phẩm huấn giáo mẫu mực

9.         Huấn giáo luôn nhận được nguồn năng lực mới từ các Công Đồng. Về phương diện nầy, Công đồng Trentô là một gương mẫu phải nêu lên : Các hiến chế và sắc lệnh của Công Đồng này đã đưa huấn giáo lên hàng ưu tiên; Công Đồng đã khơi nguồn cho quyển Giáo Lý Rô-ma là một tác phẩm hàng đầu của loại sách yếu lược trình bày giáo lý Ki-tô giáo; Công Đồng đã khích lệ việc tổ chức dạy và học giáo lý và đã thúc đẩy việc phát hành nhiều bộ sách giáo lý nhờ những đóng góp của các Giám mục, các nhà thần học thánh thiện như : Thánh Phêrô Canixiô; thánh Carôlô Bôrômêô; thánh Tôribiô hoặc thánh Rôbertô Bêllaminô
.
10.       Bởi vậy, không lạ gì sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, nhiều người lại chú ý đến huấn giáo. Các văn kiện Toà Thánh cho thấy rõ điều nầy: - Chỉ thị đại cương về huấn giáo    - (1971) - Các khóa họp Thượng hội đồng Giám mục về Phúc Âm Hoá - (1974) và về huấn giáo (1977 ) - Các tông huấn "Rao Giảng Tin Mừng"- (1975) và "Giảng Dạy Giáo Lý" (1979). Khóa họp bất thường Thượng hội đồng Giám mục năm 1985 xin "cho soạn ra một quyển sách giáo lý hoặc một toát yếu thu gọn toàn bộ đạo lý công giáo về mặt đức tin cũng như luân lý" (Bản tường trình cuối cùng II B 4.). Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã coi ước nguyện của Thượng Hội Đồng Giám Mục như ước nguyện của chính mình, khi nhìn nhận rằng: "Niềm mong ước đó hoàn toàn đáp ứng một nhu cầu thiết thực của Hội Thánh toàn cầu và của các Giáo Hội địa phương" (Diễn văn ngày 7-12-1985). Ngài đã huy động tất cả để thực hiện niềm mong ước đó của các nghị phụ.

III. MỤC ĐÍCH VÀ NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC DÀNH CHO CUỐN GIÁO LÝ NÀY

11.       Mục tiêu của bộ sách giáo lý này là trình bày một cách có tổ chức và tổng hợp những nội dung cốt yếu và căn bản của đạo lý công giáo về mặt đức tin cũng như luân lý, dưới ánh sáng Công Đồng Va-ti-ca-nô II và toàn bộ Thánh Truyền. Nguồn tư liệu chính của bộ sách là Thánh Kinh, các giáo phụ, phụng vụ và huấn quyền của Hội Thánh. Sách được dùng "như bản quy chiếu cho các sách giáo lý cũng như toát yếu được soạn ra trong các nước " (THĐGM 1985).

12.       Quyển sách này chủ yếu được dành cho các vị phụ trách huấn giáo: đứng đầu là các Giám mục, với tư cách Thầy dạy đức tin và mục tử trong Hội Thánh. Sách được cung cấp cho các ngài như dụng cụ chu toàn trọng trách dạy dỗ Dân Chúa. Qua các ngài, sách đến tay các người soạn giáo lý, các linh mục và giáo lý viên. Mọi tín hữu khác cũng sẽ đọc được trong đó nhiều điều bổ ích.

IV. CẤU TRÚC CỦA CUỐN SÁCH NÀY

13.       Lược đồ của cuốn Giáo Lý này dựa theo truyền thống cổ điển của các sách giáo lý, được soạn xoay quanh bốn trục chính : việc tuyên xưng đức tin trong bí tích Thánh Tẩy (kinh Tin Kính), các bí tích, đời sống đức tin (các điều răn), và kinh nguyện của người tín hữu (kinh Lạy Cha)

Phần thứ nhất : Tuyên xưng đức tin

14.       Những ai thuộc về Đức Ki-tô nhờ đức tin và phép rửa, phải tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người (Mt 10,32; Rm 10,9). Nhằm mục đích ấy, quyển Giáo Lý này trước hết trình bày nội dung của mặc khải và đức tin : với Mặc Khải, Thiên Chúa ngỏ lời và ban chính mình cho con người; nhờ đức tin con người đáp lời Thiên Chúa (đoạn 1). Kinh Tin Kính tóm lược những hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người, vì Người là Tác Giả mọi điều thiện hảo, là Đấng Cứu Chuộc, là Đấng Thánh Hoá. Các tư tưởng trên xoay quanh "ba điều" tuyên xưng trong bí tích Thánh Tẩy : - Tin một Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha toàn năng, Đấng Sáng Tạo; - Tin Đức Giê-su Ki-tô là Con của Người, là Đức Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta; - và tin Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh (đoạn 2)

Phần thứ hai: Các bí tích của đức tin

15.       Phần thứ hai trình bày ơn cứu độ, đã được Đức Giê-su Ki-tô và Chúa Thánh Thần thực hiện một lần dứt khoát, nay thực hiện như thế nào trong các hành động thánh thiêng của phụng vụ Hội Thánh (đoạn 1), đặc biệt trong bảy bí tích (đoạn 2).

Phần thứ ba: Đời sống đức tin

16.       Phần thứ ba trình bày cùng đích tối hậu của con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa là để được hưởng hạnh phúc, và nêu lên những con đường đưa đến hạnh phúc: - sống ngay thẳng và tự do nhờ lề luật và ân sủng của Chúa (đoạn 1) ; - bằng cách thực thi hai mệnh lệnh "mến Chúa, yêu người" được triển khai trong Mười Điều Răn của Thiên Chúa (đoạn 2).

Phần thứ bốn: Việc cầu nguyện trong đời sống đức tin

17.       Phần cuối cùng nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của kinh nguyện trong đời sống các tín hữu (đoạn 1), kết thúc với một giải thích ngắn về bảy lời nguyện xin trong kinh Lạy Cha (đoạn 2). Trong các lời nguyện xin này, chúng ta gặp được toàn bộ ơn lành mà con người mong đợi và Cha trên trời hằng muốn ban cho chúng ta.

V. NHỮNG CHỈ DẪN THỰC HÀNH CHO VIỆC SỬ DỤNG CUỐN GIÁO LÝ

18.       Chúng tôi quan niệm sách này như một bản trình bày có hệ thống về toàn bộ đức tin công giáo. Vậy phải đọc sách này như một khối thống nhất . Nhiều chỉ dẫn được ghi ngoài lề bản văn (số nghiêng, chỉ những đoạn khác cùng một đề tài) và bảng tra theo chủ đề được đặt ở cuối sách, cho thấy rõ mỗi chủ đề trong liên hệ với toàn bộ nội dung đức tin.

19.       Thường các bản văn Thánh Kinh không được trích nguyên văn, nhưng chỉ ghi xuất xứ (với "x") ở cước chú. Để hiểu nghĩa đoạn văn ấy sâu xa hơn, nên tra chính các bản văn đó. Các tham chiếu Thánh Kinh này rất hũu ích cho huấn giáo.

20.       Những đoạn in chữ nhỏ là những ghi chú thuộc loại sử học, hộ giáo hoặc là những bài tường trình tín lý bổ sung.

21.       Các đoạn trích dẫn in chữ nhỏ, lấy từ những văn kiện các giáo phụ, phụng vụ, tông huấn hoặc hạnh các thánh, được dùng để giúp bản văn tín lý thêm phong phú. Thường những bản văn ấy được chọn nhằm sử dụng trực tiếp trong Huấn giáo.

22.       Cuối mỗi mục, có một số câu ngắn tóm lược cốt lõi của bài học. Những câu "TÓM LƯỢC" ấy nhằm đề xuất những công thức tổng hợp và dễ nhớ giúp việc huấn giáo ở các địa phương.

VI. NHỮNG THÍCH NGHI CẦN THIẾT

23.       Sách này nhấn mạnh đến phần trình bày đạo lý. Thật vậy, chúng tôi muốn giúp độc giả hiểu sâu rộng về đức tin, nhờ đó, đức tin được trưởng thành, đâm rễ vào cuộc sống và tỏa sáng thành lời chứng (CT 20-22; 25).

24.       Chính vì nhắm mục đích này, chúng tôi không có ý định thực hiện những thích nghi trong cách trình bày giáo lý cũng như những phương pháp huấn giáo theo những đòi hỏi do khác biệt về văn hóa, tuổi tác, mức trưởng thành tinh thần, hoàn cảnh xã hội và Giáo Hội... của những người học giáo lý. Việc thích nghi cần thiết ấy là trách nhiệm của những người soạn sách giáo lý chuyên biệt, và nhất là của những vị giảng dạy.

Người giảng dạy phải "trở nên tất cả cho mọi người" (1Cr 9,22), để chinh phục mọi người cho Đức Giê-su Ki-tô...., đừng tưởng rằng chỉ có một hạng người duy nhất được giao cho mình, vì thế có thể tùy tiện giảng dạy và huấn luyện mọi người tín hữu như nhau theo cùng một phương pháp duy nhất, bất di bất dịch. Phải nhớ rằng, trong Đức Giê-su Ki-tô, có người như trẻ sơ sinh, có người như thiếu niên, những người khác như đã trưởng thành ... Khi truyền đạt các mầu nhiệm đức tin và các qui luật sống, người giảng dạy phải thích nghi với tinh thần và trí hiểu của người nghe (Giáo lý Rô-ma, lời tựa 11).

TRÊN HẾT MỌI SỰ LÀ ĐỨC ÁI

25.       Để kết thúc phần trình bày này, thiết tưởng nên nhắc lại nguyên tắc mục vụ đã được quyển Giáo Lý Rôma nêu ra :

Tất cả mục đích của giáo lý và lời giảng dạy phải được đặt trong Tình Yêu vĩnh cửu. Dù có thể trình bày thật khéo léo điều phải tin, cậy hay làm, nhưng điều chính yếu là phải làm nổi bật lòng yêu mến Chúa, để mọi người hiểu rằng mọi hành vi tốt theo đúng nghĩa Kitô giáo không có nguồn gốc nào khác ngoài Tình Yêu và không có cùng đích nào khác ngoài Tình Yêu.

1597    09-02-2011 20:22:48