Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Chúa Nhật XXXII Thường Niên A năm 2014

  1. Thiên Chúa Gặp Gỡ Con Người
  2. Đền Thánh Trong Chúa
  3. Chuẩn Bị Sẳn Sàng
  4. Dọn Lòng Đón Chúa
  5. Thức Tỉnh
  6. Mười Cô Trinh Nữ
  7. Tỉnh Thức Để Dự Tiệc Nước Trời
  8. Khôn và Dại
  9. Vào Giờ Ấy Chúng Ta Ðang Ở Trong Tình Trạng Nào?
  10. Hãy Luôn Tỉnh Thức và Sẳn Sàng
  11. Chúa Nhật Thứ 32 Mùa Thường Niên
  12. Cảnh Giác và Sẳn Sàng Đón Chúa
  13. Chúa Nhật Thứ 32 Mùa Thường Niên
  14. Chúa Nhật XXXII Mùa Thường Niên
  15. 10 Cô Trinh Nữ Được Mời Dự Tiệc
  16. Sẳn Sàng
  17. Khôn Ngoan
  18. Hãy Sẳn Sàng Để Đón Chúa
  19. Khi Cánh Cửa Phòng Tiệc Đóng Lại
  20. Kẻ Khờ Dại Đánh Mất Nước Trời
  21. Người Khôn Người Dại
  22. Tỉnh Thức Chờ Đợi
  23. Niềm Hy Vọng
  24. Sẳn Sàng

 

THIÊN CHÚA GẶP GỠ CON NGƯỜI
(Cung Hiến Thánh Đường Thánh Latêranô)
Ga 2, 13 – 22

Có một bài hát sinh hoạt như sau:
“Anh em chúng ta có chung một ngôi nhà.
Anh em chúng ta có chung một người cha,
Dù có đi xa vẫn mong quay về nhà
Nhà chúng ta ngôi nhà rộng lớn bao la…

Đúng vậy, ngôi nhà là một trong những nơi gắn liền với đời sống của con người. Vì đó là nơi chúng ta được sinh ra và lớn lên. Hơn nữa, đó là nơi gặp gỡ giữa các thành viên trong gia đình. Thật là cao quý biết bao khi các thành viên trong gia đình biết quan tâm và yêu thương nhau. Bởi đó, người ta mới có câu: “Một túp lều tranh hai quả tim vàng”.

Như vậy, ngôi nhà là nơi gặp gỡ thân mật giữa con người với nhau. Còn một nơi khác cao quý hơn đối với người kitô hữu chúng ta. Nơi ấy không gì khác đó là nhà thờ hay còn gọi thánh đường. Thánh đường Latêranô chúng ta mừng kỷ niệm cung hiến hôm nay được gọi là mẹ của các thánh đường trên thế giới. Chính nơi ấy là nơi gặp gỡ thân mật giữa Thiên Chúa và con người.

Thời Cựu ước người Do thái đã xây đền thờ Giêrusalem để hằng năm họ đến đó gặp gỡ và tỏ lòng tôn thờ của mình lên Thiên Chúa. Và đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy vào dịp lễ Vượt Qua Chúa Giêsu cũng lên đền thờ Giêrusalem. Tuy nhiên, Người đã không hài lòng vì người Do thái đã không còn giữ đúng ý nghĩa và mục đích nơi Đền thờ nữa. Có thể nói đây là lần duy nhất trong Tin mừng Chúa Giêsu tỏ ra nóng giận: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2, 14 -1 6)

Nhà thờ là nơi gặp gỡ thân mật giữa Thiên Chúa và con người nên phải được gìn giữ trang nghiêm và sạch sẽ. Do đó, mỗi người chúng ta có bổn phận bảo vệ và gìn giữ nhà thờ họ đạo của mình.

Chúng ta được gặp Chúa cách đặc biệt khi cùng nhau dâng Thánh lễ. Vì trong Thánh lễ Chúa Giêsu hiện diện dưới nhiều hình thức. Cho nên, khi đến Nhà thờ dâng Thánh lễ chúng ta được kêu gọi dâng cả tâm hồn cho Chúa. Bất cứ những xáo trộn lo toan gì chúng ta hãy tạm gát qua. Để rồi qua những giây phút đặc biệt ấy chúng ta thật sự được gặp gỡ Thiên Chúa là suối nguồn tình yêu.

ĐỀN THÁNH TRONG CHÚA
(Cung Hiến Thánh Đường Thánh Latêranô)
Ga 2, 13 – 22

Chúa Nhật XXXII Thường niên năm nay trùng vào dịp Cung Hiến Thánh Đường Latêranô, ngôi thánh mà đường trước đây được kính Chúa Cứu Thế, rồi sau đó kinh thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cùng suy niệm với Cha Raniero Cantalamessa, OFM, (x. ZENIT.org, 7.11.2008) với tựa đề: Người Kitô hữu có cần một ngôi nhà thờ để sống niềm tin của mình không?

Trước hết, Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan đã chỉ cho chúng ta cách thức thờ phượng Thiên Chúa: “Giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Gioan 4,23). Như thế, Đền thờ của Thiên Chúa, trước hết, là tâm hồn con người đón nhận Lời của Chúa.

Thánh Phaolô cũng viết như vậy cho các tín hữu Côrintô: “Anh em chính là đền thờ của Thiên Chúa” (1 Côrintô 3,16). Người tín hữu chính là đền thờ mới của Thiên Chúa vậy! Nơi nào có hai hay ba người tụ họp vì danh Chúa (x. Mt 18,20), cũng chính là nơi mà Thiên Chúa và Chúa Kitô hiện diện.

Công Đồng Vaticanô II gọi gia đình là “Hội Thánh tại gia” (HT, 11), tức là đền thờ nhỏ của Thiên Chúa, bởi vì nhờ Bí tích Hôn phối, gia đình đích thực là nơi mà “hai hay ba người” tụ họp vì danh Chúa.

Vấn đề đặt ra là nếu chúng ta có thể thờ Chúa trong tinh thần và chân lý nơi tâm hồn của mình, thì tại sao người tín hữu lại đặt năng vai trò của ngôi nhà thờ như thế? Hơn nữa, tại sao Hội Thánh lại buộc chúng ta phải dự lễ nhà thờ ngày Chúa nhật? Câu trả lời là: Chúa Giêsu không cứu chuộc mỗi người chúng ta cách riêng rẽ; Người đến để thiết lập một dân, một cộng đoàn hiệp thông với Chúa và với nhau. Và như vậy, nhà thờ chính là nhà của gia đình của Thiên Chúa, giống như mái nhà là nơi cư ngụ của gia đình. Không có gia đình thực sự nếu không có được một mái nhà (dù mái nhà đó có như thế nào!). Sự nâng đỡ, tình âu yếm và niềm vui được triển nở trong mái ấm của gia đình, trong một mái nhà.

Người tín hữu một đàng, phải chu toàn bổn phận đến nhà thờ để đón nhận ân sủng từ các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể hiệp thông mỗi người với Chúa và với nhau, bởi vì có kết hợp với Chúa và với nhau chúng ta mới chia sẻ được hạnh phúc của Chúa đời nầy và đời đời; đàng khác vì mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,16), nên yêu thương, quan tâm đến người khác là chúng ta cũng đồng thời thực hiện nhiệm vụ yêu mến đền thờ của Thiên Chúa.

Lối sống thực dụng, cái gì có lợi thì làm thường đưa người ta đến chỗ “trọng phú, khinh bần”. Chúa Giêsu dạy chúng ta rất thực tế, khi giúp người nghèo, thấp cổ, bé miệng, là yêu Chúa: “Ta đói mà con đã cho ăn. Ta trần truồng con đã cho mặc. Ta không nàh con đã cho cư ngụ” (x. Mt 15, 31-36).

Mẹ Têrêsa dạy và sống cũng rất cụ thể: “Cần phải nói ít đi, bởi vì điều rao giảng chưa phải là điều được đón nhận. Hãy cầm lấy cây chổi để quét nhà cho một ai đó, công việc ấy đã đủ để rao giảng”.

Cũng đừng tưởng rằng chỉ có người nghèo đói thể xác mới cần sự chia sẻ cảm thông, theo Mẹ Têrêsa trên thế giớ nầy “người đói tình yêu nhiều hơn đói cơm bánh”. “Sự nghèo đói khủng khiếp nhất chính là sự cô đơn, bị bỏ rơi và cảm thấy klhông được yêu thương”. Người nghèo thiếu thốn đủ thứ đã đành, mà người giàu cũng “khóc” không kém.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết cách sống Lời Chúa cho xứng hợp, yêu mến nhà thờ là nhà của Chúa, đồng thời không quên bổn phận chăm nom “ngôi nhà” khác của Chúa là những anh em cùng khốn đang cần một bàn tay đưa ra của mỗi người chúng ta.

CHUẨN BỊ SẲN SÀNG
Mt 25, 1 – 13

Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại, làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày, nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.

Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì chúng biết dự trử, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như thế.

Chúa Giêsu mời gọi mọi người suy nghĩ về dụ ngôn những trinh nữ đi đón chàng rể, trong số đó có những cô biết chuẩn bị chu đáo, còn có những cô chỉ lo những gì hào nhoáng bên ngoài. Tất cả các cô đều được mời gọi và chuẩn bị. Nhìn bên ngoài mọi người như nhau, mọi người đều lo công việc của mình, công việc đáp lại lời mời gọi. Nhưng để lời đáp có giá trị hay không, đến giờ phút quyết định thì mọi việc mới sáng tỏ. Trong giờ phút đó những người được gọi là khôn ngoan, là những người biết đáp lại lời mời cách trọn vẹn, họ biết chuẩn bị thật chu đáo cho lúc cần thiết. Còn những người bị gọi là khờ dạy, họ cũng chuẩn bị, nhưng chỉ chuẩn bị với hình thức bên ngoài, họ cũng lo lắng, cũng làm việc, nhưng chỉ làm những gì mà bao nhiêu người nhìn thấy, chỉ làm những gì mà họ thích, chứ không phải làm những gì cần thiết.

Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai.

Lời nói lạnh lùng khô khan cho những người không biết chuẩn bị xứng đáng. Lời nói đó trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói khi xưa, nhưng lời đó cũng là lời mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu không chỉ nói cho những người ngày xưa mà thôi, nhưng cho mọi người và mọi thời.

Chúng ta để một ít phút hồi tâm, nhìn lại con người của mình, nhìn lại lời mời gọi mà chúng ta đã lắng nghe từ khi lãnh Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta cũng nhìn lại sự chuẩn bị của mỗi người cho đến ngày hôm nay như thế nào? Hằng ngày mỗi người làm việc không có thời gian nghĩ ngơi, làm việc thật vất vã. Mỗi người lo cho cuộc sống riêng tư, lo cho bản thân, còn lo cho gia đình, cho những người thân. Ngoài ra còn có lúc cũng lo giúp cho những người xa lạ, cũng có lúc làm những việc gọi là bác ái. Hơn thế nữa mỗi người đang là người Công Giáo, ngoài đời sống vật chất gia đình, còn phải có bổn phận với Chúa: dự lễ ngày Chúa nhật, cũng có xưng tội, rước lễ, cũng sống bình thường. Không có làm gì đáng trách, cũng không phiền hà trách móc người khác bao giờ. Nếu chỉ như thế, thì ngọn đèn cuộc đời của chúng ta giờ đây, cần cho cháy sáng, không biết nó sẽ ra sao? Vì nó chỉ là chiếc đèn, nhưng bên trong nó không có gì hết thì làm sao nó có thể cháy sáng được.

Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm thật sự của mình mà chu toàn, nếu chúng ta còn nhìn thấy được những cảnh thương tâm trước mắt mà con tim thổn thức, để rồi đôi tay phải hành động, đôi chân không thể ngồi yên vì đang có người cần đến chúng ta. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng thở than để an ủi, lắng nghe những lời phiền trách để biết sữa đỗi cho tốt hơn, lắng nghe những lời tốt đẹp để sống tốt hơn theo thánh ý Chúa; lúc đó chúng ta đang tìm chất dầu dự trử cho ngọn đèn cuộc đời của mình. Những lúc đó chúng ta làm việc như con kiến, không cần ai biết đến, nhưng đây là việc cần thiết phải làm. Như thế thì bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng không sợ hoàn cảnh bất ngờ xảy đến.

Xin Chúa ban sự khôn ngoan của Chúa cho mỗi người chúng con để biết chuẩn bị cho mình luôn cháy sáng trước mặt Chúa.

DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA
Mt 25, 1 – 13

Cái chết làm loài người sợ hãi nhưng không tránh khỏi được. Nhiều người cố gắng kéo dài sự sống bằng nhiều phương pháp khác nhau để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận nó. Đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là đi vào một cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta sống theo lời dạy của Thầy Giêsu Chí Thánh, đời đời chúng ta sẽ được một cuộc sống hạnh phúc vô vàn. Nếu chúng ta không tin giữ lời Đức Giêsu, mãi mãi chúng ta sẽ phải hối hận! Biết chắc điều đó sẽ đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn để được nghênh đón Chúa Giêsu ngự đến và vui mừng nhận phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ trung thành với Người.

Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn đều biết mình đang chờ gặp chàng rễ và mong được vào dự tiệc với Người. Tuy nhiên, các cô không biết giờ chàng rễ đến, năm cô khôn ngoan biết chắc chàng rễ sẽ đến nên đã chuẩn bị sẵn sàng. Khi chàng rễ đến, tất cả đều muốn được đón chàng rễ vào dự tiệc. Thế nhưng, 5 cô khờ dại vì không chuẩn bị trước nên không có dầu thắp đèn để đón chàng rễ! Chúng ta biết cuộc đời này có hạn và chúng ta sẽ phải tiến đến đời sau, nhưng có một số người lại không lo chuẩn bị cho cuộc sống đời đời, chưa lo làm việc lành dù được Chúa nhắc nhở thường xuyên.

Nhiều người vì không muốn cực khổ nên không chịu học hỏi, không muốn phục vụ, không dệt nên một cuộc đời có ý nghĩa, không cố gắng sống tốt nên mất luôn cả đời này và đời sau. Để biết đúng hay sai, chúng ta hãy trở về với lòng mình mình và cầu nguyện với Chúa. Lúc đo, lương tâm chúng ta sẽ mách cho chúng ta biết mình như thế nào, đang được dồi dào ơn nghĩa Chúa hay đang sống èo uộc vì thiếu sót bổn phận với Chúa, với tha nhân hay với chính mình. Khi chúng ta không lo tròn bổn phận thì lương tâm trách móc, khi chúng ta làm điều lành thì tâm hồn bình an. Ai chểnh mảng bổn phận trong đời sống, thì trong giờ chết có đủ công phúc để vào nước Trời không ? Vậy, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa và thực hành đầy đủ, làm tròn mọi bổn phận trong cuộc sống trong niềm Tin Cậy Mến. Nếu Chúa có đến chậm thì chúng ta cũng hãy kiên tâm giữ đạo, không được buông lơi, nhưng biết lo làm việc lành phúc đức và việc bổn phận hàng ngày. Nếu chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì giờ Chúa đến bất ngờ cũng sao, vì chúng ta luôn luôn ở trong ân nghĩa Chúa.

Chúng ta đừng bắt chước năm cô khờ dại. Các cô này đã dại đến cả hai lần: từ đầu các cô đã không mang dầu theo và khi chàng rễ đến muộn cũng không biết lợi dụng thời gian chờ đợi để sắm sửa cho đủ dầu. Chính sự chểnh mảng không đem dầu theo đã khiến các cô bị loại trừ, không còn là người trong tiệc cưới với chàng rễ nữa. Những ai không sống đạo tốt và không lo cho phần rỗi đời sau của mình thì cũng vậy.

Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong đợi chờ, cho đến giờ chết của chúng ta. Nhưng chúng ta không đợi chờ cách thụ động mà phải tranh thủ lập công, đền tội, luôn trung thành với ơn nghĩa Chúa. Đến lúc chết mới sám hối thì không còn kịp nữa! Khi cửa đã đóng lại thì muôn đời không vào được nữa, những lời van xin trong giờ phán xét là không còn giá trị và Chúa sẽ không đón nhận.

Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến, vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức, trung thành sống trong ơn nghĩa Chúa và tin tưởng phó thác vào sự quan phòng và tình thương của Chúa.

THỨC TỈNH
Mt 25, 1 – 13

Tờ báo Digest thuật lại tai nạn xe hơi xảy ra trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1994, nguyên do là cô Jacqueline 16 tuổi vừa nhận được bằng lái xe, nhân ngày nghỉ cô đã mời các bạn đi siêu thị, trong xe có 3 người bạn trai và một người bạn gái. Họ vui vẻ thuật lại cho nhau nghe về những thú vui của ngày lễ, vì quá vui nên Jacqueline đã để lạc tay lái, xe lao vào đường ngược chiều. Và bất ngờ một xe khác ngược chiều đã tông vào xe của cô, hậu quả là 4 người đều thiệt mạng.

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy cái chết đến với cô Jacqueline và các bạn của cô rất bất ngờ. Họ không bao giờ nghĩ mình lên chiếc xe này rồi đi không bao giờ trở lại. Họ không ngờ Thiên Chúa đến với họ bất ngờ như vậy.

Thiên Chúa đã gọi cô Jacqueline và các bạn của cô đi cách rất bất ngờ, khi người ta không bao giờ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra thì lại xảy ra. Cũng thế Thiên Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta cách bất ngờ như thế, vào lúc chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Do đó, mà hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười cô trinh nữ để nói về việc thức tỉnh chờ ngày Chúa đến. Dụ ngôn này dựa theo phong tục cưới hỏi của người Palestin thờ Chúa Giêsu theo luật Môisen cưới hỏi không có tính cách tôn giáo như ngày hôm nay. Việc cưới hỏi thường làm về ban đêm. Năm bảy hôm trước ngày cưới, hai bên nhà trai nhà gái đãi tiệc bạn hữu của mình. Rồi ngày cưới hai họ nhập lại ăn uống ở bên nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất là đêm rước dâu, chập tối chàng rể cúng các bạn phù rể, tay mang bó đuốc lên đường đi đến nhà gái, khi đó cô dâu và các bạn phù dâu sửa soạn đèn sẵn cho chàng rể đến. Khi mọi sự sẵn sàng đám rước dâu khởi hành. Về tới nhà trai là vào tiệc cưới ngay. Đèn các cô phù dâu phải đủ đốt chờ chàng rể đến, và phải thêm bình dầu để đốt khi ăn tiệc. Tại tiệc cưới đèn các cô phù dâu phải treo thành hình vòng hoa ánh sáng quanh cô dâu chú rể.

Qua dụ ngôn Chúa Giêsu ví mình như một chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày phán xét để mở tiệc cưới và ban phúc thiên đàng cho loài người. Những người thức tỉnh và sẵn sàng sẽ được hưởng phúc. Những người chểnh mảng là những cô khờ dại sẽ bị loại ra ngoài. Thiết nghĩ qua dụ ngôn Chúa vẫn muốn mỗi người chúng ta là những người thức tỉnh và sẵn sàng. Nhưng để làm được điều đó, đòi hỏi chúg ta phải biết chuẩn bị như năm cô khôn ngoan bằng cách:

1. Làm tròn trách nhiệm trong cuộc sống.

Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho những nến bạc, nén bạc sức khỏe, nến bác thời giờ và Ngài cũng không quên trao cho trách nhiệm để cộng tác với Ngài trên cuộc đời lữ hành. Ở đây chúng ta cũng thấy Thiên Chúa đã ban cho các cô khờ dại cũng như các cô khôn ngoan. Nhưng kết quả cuối cùng thì trái ngược nhau, các cô khôn ngoan “được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Còn các cô khờ dại thì phải ở bên ngoài. Ở đây không muốn nói đến sự khôn ngoan thức tỉnh theo kiểu người đời, nhưng là sự khôn ngoan vì Nước Trời. Sự khôn ngoan được thể hiện bằng hành động cụ thể, với một quyết tâm và thao thức muốn đón Chúa, muốn đợi Chúa. Và luôn sẵ sàng trả lời “Lạy Chúa, con đây” bất cứ lúc nào Ngài muốn.

Sẵn sàng như thế đòi hỏi chúng ta phải làm tròn trách nhiệm với Chúa, với bề trên, với anh em và cả với bản thân nữa... Năm cô khờ dại hôm nay đã biết đốt đèn thì cần phải có dầu, nhưng lại thờ ơ không mang theo. Nếu xét về trách nhiệm thì các cô khờ dại đã không làm tròn bổn phận được giao. Nhìn lại đời sống chúng ta, mỗi người đều được Thiên Chúa giao cho công việc “cầm đèn ra đón chàng rể” . Chắc chắn trong thâm tâm mỗi người đều muốn chuẩn bị, nhưng đôi khi ước muốn đó chỉ mới thể hiện ở lòng ao ước. Rồi ngày lại qua ngày, đến lúc “chàng rể đến” tôi vẫn không có dầu để đón chỉ vì tôi quá thờ ơ, vô tâm không chịu làm tròn trách nhiệm ngay ở giây phút hiện tại.

2. Sống trong ân sủng.

Các cô khôn ngoan đã đem dầu đầy đủ nên không cần phải lo sợ chàng rể đến cách bất ngờ nữa. Vì đả chuẩn bị đầy đủ và biết chắc chắn mình có đủ dầu. Ở đây muốn nói đến những người có đời sống đạo tốt thật sự, họ luôn sống trong ơn nghĩa Chúa để chờ ngày Chúa gọi về với Người. Một khi chúng đạt tới mức độ “ngụp lặn trong ân sủng” thì ngay cả cuộc sống đời này cũng không cảm thấy thiếu thốn, không thấy lo sợ va luôn được bìh an. Muốn được như vậy đòi mỗi người phải nỗ lực bản thân rất nhiều, đôi khi còn phải chấp nhận hy sinh từ bỏ để được sống trong ân sủng Chúa.

Lạy Chúa, trên cuộc sống lữ hành có rất nhiều chông gai ngăn cản con đến với Chúa, có nhiều quyến luyến cám dỗ làm con u mê. Xin Chúa cho con biết thức tỉnh để đón Chúa trong bất cứ giây phút nào trong đời con . Amen.

MƯỜI CÔ TRINH NỮ
Mt 25, 1 – 13

Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh là: “SẮP SẲN.” Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào, vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể sống riêng rẻ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu… Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cùng nói lên một chủ đề như thế. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Lễ cưới của người Do thái: đây là dịp người do thái tổ chức lễ lạc linh đình. Nhà giàu hoặc có địa vị, lễ cưới sẽ kéo dài đến 7 ngày, có khi hơn nữa; nhà nghèo thì 3, 4 ngày… Câu chuyện tiệc cưới ở Cana, chỉ một mình thánh Gioan thuật lại, cũng cho thấy vì tiệc kéo dài nhiều ngày, nên họ đã tiêu thụ một lượng rượu rất lớn. Sáu chum đá, mỗi chum đựng được trên 80 lít; vậy vị chi ít nữa hơn 500 lít rượu, Chúa Giêsu đã làm cho số nước đó thành rượu; đó là chưa kể rượu gia chủ đã chuẩn bị trước. Xem ra người do thái uống rượu có thua ai đâu?...

Ta lại nói tới chuyện rước cô dâu, là chuyện chính của bài dụ ngôn hôm nay: hình như việc cô dâu đợi chàng rể đến rước về nhà mới, là một nghi lễ có phần cầu kỳ và trang trọng. Toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rễ. Họ đứng hai bên đường ca hát chúc tụng. Chú rễ có vai trò quan trọng, nên mọi người phải chờ đợi và đón chú rễ. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rễ phải đến nhà gái buổi chiều để thương lượng về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn…Việc rước cô dâu có thể vào ban đêm, nên cũng có thể chú rễ trì hoản giờ đón, để cho thêm hồi hộp. Vì không dự báo trước nên các người phù dâu phải ở trong tư thế thức tỉnh, chuẩn bị sẵn sàng….

b/.- Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa thuật dụ ngôn mười cô trinh nữ, một câu chuyện khá sống động. Đọc qua, người ta có thể hiểu phần nào được nội dung Chúa muốn nói gì. Nhân vật chính trong câu chuyện, không phải cô dâu chú rễ, mà là mười cô phù dâu. Các cô trinh nữ này khi được mời làm phù dâu, họ lấy làm vinh hạnh lắm, vì thế không ai muốn việc làm của mình bị hỏng cả. Vậy mà trong tiệc cưới này, các cô lại sơ xuất chết người; vì chàng rễ đến quá trể, lại tiệc tùng suốt ngày, nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả… Bất thần, chàng rễ đến, họ đi ngay phòng tiệc rồi đóng cữa lại. Năm cô khờ dại, đã bị từ chối không cho vào dự tiệc….

Chính thái độ của các cô khôn ngoan và của các cô không phòng xa, đó là điễm chính Chúa muốn nói: Hình ảnh các cô khôn ngoan biết tỉnh thức sẵn sàng, đồng thời cũng chuẩn bị hành trang, là đầu và đèn….Ngày Nước Trời đến lần cuối cùng, sẽ là ngày bất ngờ không ai biết trước được, nên mọi người phải sẵn sàng tỉnh thức, và mang đầy đủ hành trang, vì lúc đó chẳng ai có thì giờ để giúp đở ai được nữa…Nếu không tỉnh thức, không sẵn sàng, đợi đến khi sự việc ập đến, rõ ràng quá trể; có hối tiếc cũng quá muộn rồi!

Câu chuyện: con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm, đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với 2.200 hành khách, ngày 10. 04. 1912. Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó nữa…Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ, khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều chúa nhật, nó chìm hẳn, mang theo 1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con. Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác, dù nó to lớn…. 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không? Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Trên đời này, ai biết chuẩn bị trước, biết tính toán kỷ lưỡng, biết đề phòng xa, họ sẽ có nhiều cơ may để thành công trong cuộc sống lắm. Về cuộc sống mai sau, ai biết tỉnh thức, biết chuẩn bị hành trang sẵn như mấy cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin mừng CN hôm, họ sẽ nhiều cơ may được vào Nước Trời. Phần chúng ta, chúng ta nghĩ làm sao đây?

TỈNH THỨC ĐỂ DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI
Mt 25, 1 – 13
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ngày nay và muôn thời, bữa ăn vẫn là đề tài nóng bỏng, xôi động người ta hay nói tới. Mà có ăn, con người mới làm lụng vất vả, mới đầu tư công sức, trí tuệ để cố làm sao cho vật chất vươn cao. Có tiền, có của, bữa tiệc, bữa ăn mới được cải thiện tốt đẹp.Chúa Giêsu là một con người rất thực tế, Ngài đã ví Nước Trời như một bữa tiệc, một tiệc cưới hay như mười cô trinh nữ…...

Dưới ngòi viết của thánh Matthêu, câu chuyện mười cô trinh nữ mang tính chất bi hài. Cái nghịch lý ở câu chuyện này là tất cả muời cô gái đều được chủ báo là chàng rể sẽ đến, nên mọi cô đều phải khôn ngoan và tỉnh thức để chón chàng rể đến bất ngờ. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thì vô cùng khác với sự ma ranh, lườn lẹo của thế gian. Cái mà thế gian cho là dại khờ, lại trở nên có giá trước mặt Thiên Chúa. Sự đảo lộn của thập giá là như vậy.Trình thuật Mt 25, 1-13 là sự đảo ngược của cái khôn, cái khờ. Năm cô khôn ngoan gắn liền với sự tỉnh thức. Chúa nói: " Các con hãy tỉnh thức.. .vì không biết ngày nào giờ nào ".

Tính bi hài của câu chuyện bắt đầu ở 5 cô gái khờ khạo. Dĩ nhiên, trước khi vào tiệc cưới, chủ đã báo với 10 cô trinh nữ rằng chàng rể sẽ đến, nhưng phải đèn dầu sẵn sàng. Đây là tập tục của dân Do Thái, họ thường tổ chức đám cưới vào đêm tối. Vậy, sẵn sàng đèn không chưa đủ mà còn phải chuẩn bị dầu nữa.. . Các cô khờ cứ mơ hồ, ấm ớ vì lời nói của chủ các cô để ngoài tai, không chú tâm đến giờ đón chàng rể. Như thế, Nước Trời hầu như cũng trở nên lu mờ với các cô. Các cô dù không bị khước từ, nhưng giờ chàng rể đến các cô không sẵn sàng và như thế, Nước Trời cũng trở nên xa vời với các cô. Ngược lại, 5 cô gái khôn ngoan nghe lời chủ, tin tưởng vào chủ, các cô mang đèn lại chuẩn bị cả dầu. Đây là sự chuẩn bị hết sức bình thường của một con người biết dự trù, biết nhìn trước sự việc trong tin tưởng, cậy trông. Các cô khôn ngoan đã hân hoan đón giờ chàng rể đến và vào phòng dự tiệc.. .

Thánh Matthêu đã nhiều lần đưa ra những ví dụ, những dụ ngôn hết sức hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh, với con người. Có đoạn Ngài đã nói tới sự khôn ngoan của người xây nhà trên đá, không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, dưới gầm giường, không ai lãnh bạc rồi đem chôn không làm cho sinh lợi, không ai ngu dựng nhà trên cát, không ai ngu tìm được ngọc quý mà lại không tìm hết cách để mua bằng được viên ngọc quý giá đó. Tất cả những sự việc ấy nói lên sự dự trù khôn ngoan của con người, một sự tiên đoán tất yếu phải có nếu muốn thành công. Người Kitô hữu theo Chúa luôn phải tỉnh thức và sẵn sàng. Nước Trời đang ở đó, đang ở đây. Nước Trời rất gần nhưng cũng rất xa khi con người không biết tỉnh thức, khôn ngoan và cầu nguyện. Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời khi Ngài khai mạc sứ vụ công khai: " Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần đến" ( Mt 4, 17 ) hoặc " Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng " ( Mc 1, 14-15)

Người Kitô hữu sẽ đạt được Nước Trời khi họ mở lòng đón nhận mọi người bằng những hành động tốt, hành động bác ái. Tin Mừng của Chúa sẽ xuyên suốt trong đời sống người Kitô hữu khi họ biết mở lòng để đón nhận Nước Trời với niềm tin trong sáng, với sự khôn ngoan tỉnh thức như 5 cô gái khôn ngoan. Nước Trời chỉ vuột khỏi tay con người, luột khỏi tay của người có niềm tin khi họ không sẵn sàng chờ đón chàng rể đến bất ngờ, mà lại hành động mơ hồ, khù khờ như 5 cô trinh nữ khờ dại.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có tâm hồn mở rộng để tỉnh thức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến.

KHÔN VÀ DẠI
Mt 25, 1 – 13
Lm Vikini
Lời Chúa đề cập đến năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Thế nào là khôn ngoan và khờ dại ?

Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích :

Theo chiều kích tự nhiên, khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.

Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là "Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập" (1V. 5, 9-14).

Theo chiều kích siêu nhiên, khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là "Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết" (Dn. 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói : "Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan" (Cv. 6, 3)

Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa "Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl. 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan : "Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan" (Hc. 1, 7-12)

Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: "Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv. 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1. 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói : "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc. 11,31). Cho nên Bài đọc I đã hô hào ta khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu (Kn. 6, 12-16)

Bài Tin mừng cho thấy năm cô khôn ngoan. Các cô đã được theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Đây là tiệc cưới nước Trời muôn ngàn vinh quang rực rỡ, và hạnh phúc vô cùng.

Các cô đáng được hưởng hạnh phúc vinh quang đó vì các cô khôn ngoan biết lo chu toàn nghĩa vụ của mình, đã sửa soạn đầy đủ đèn dầu thắp sáng cho đám tiệc được vui mừng rực rỡ. Các cô đã coi trọng nhiệm vụ mình để tôn trọng chú rể, mong đợi giờ phút chú rể đến, dù bất cứ lúc nào, các cô đã sẵn sàng tất cả mọi sự, các cô có thiếp ngủ, các cô vẫn an giấc, không còn lo âu, áy náy sợ chi nữa. Chỉ cần có tiếng hô to là các cô thức dậy theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Thánh Phaolô thấy giáo hữu Thessalonica đã khôn ngoan sống theo lời Chúa, nên ngài đã an ủi họ đừng có buồn phiền về người an giấc ngàn thu như những người không tin tưởng, những người khờ dại. Vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Chúa Giêsu.. . được ở cùng Chúa mãi mãi (Thes. 4, 13-18)

Trái lại, những kẻ khờ dại như năm cô đem đèn mà không có dầu. Những kẻ này quá tệ ! Chúng lơ là lười biếng, thờ ơ nguội lạnh bỏ bê nhiệm vụ, chúng khinh thường những việc trọng đại như tiệc cưới, coi khinh chàng rể, xách đèn đi mà không coi gì tới đèn có dầu hay không. Sống quá bừa bãi, bê tha gì đâu đâu, còn chính nhiệm vụ quan trọng của mình lại không lo. Đối với hạng người bê bối này, chủ bảo : "Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô là ai cả". Chúng đã không biết chủ, không kính trọng chủ, làm cho đám tiệc thiếu niềm vui vì thiếu ánh sáng, tối tăm, cho nên chúng đáng phải trong tối tăm. Khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần ban ra và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, những người chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trong vinh quang với Chúa (Thes. 4,16), còn "những kẻ đã không làm cho chính Ta, sẽ bị đuổi vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 46).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan tỉnh thức, luôn luôn sẵn sàng lo chu toàn ý chủ, chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc Chúa trao phó. Như thế, chúng con đã chứng tỏ được lòng trung tín tôn thờ và kính mến Chúa hết lòng. Xin đừng bao giờ để con dám bỏ bê khinh thường việc chuẩn bị đi đón Ngài, kẻo bị loại ra khỏi tiệc cưới nước Trời.

VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ÐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
Mt 25, 1 – 13
Lm Mark Link, SJ

1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.

Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. "Như một tên trộm viếng vào ban đêm". (1 Tx 5 : 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.

Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Ðiều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: "Ta không biết các ngươi". Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?

- Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?
- Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?
- Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?

Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Ðây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; "Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Ðấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ" (Dt 4 : 12-13).

Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Ðây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?

Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.

Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.

Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Ðó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Ðó là "Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh" thường đọc sau rước lễ:

Lạy Ðức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Ðang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Ðavid phán tiên tri về Chúa con rằng: "Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra".

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

HÃY LUÔN TỈNH THỨC và SẲN SÀNG
Mt 25, 1 – 13

Lm Đan Vinh

1) LỜI CHÚA : "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào" (Mt 25,13).

2) CÂU CHUYỆN :
GẶP CHÚA TRONG NHỮNG NGƯỜI NGHÈO ĐÓI CHUNG QUANH :
Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy rất sớm. Bác ta dọn dẹp cửa hàng cho sạch sẽ và gọn gàng tươm tất, rồi sau đó bác vào trong phòng khách chờ đợi đón vị khách quý là Chúa Giê-su, mà đêm vừa qua bác đã được Người hiện ra cho biết rằng Người sẽ đến thăm bác trong ngày hôm nay.

Bất chợt bác nghe tiếng gõ cửa. Bác rất hồi hộp và vui sướng, vì không ngờ Chúa lại đến sớm như vậy. Khi mở cửa ra thì người đang đứng trước cửa không phải là Chúa, mà là người đưa thư quen thuộc. Mặt mũi ông ta tím tái vì thời tiết bên ngoài rất lạnh. Bác liền mời người đưa thư đến ngồi bên lò sưởi cho ấm, rồi bác nấu nước pha một bình trà nóng mời khách. Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày tiếp tục chờ đợi.

Nhìn qua cửa sổ, bác thấy một bé gái khoảng mười tuổi đang đứng khóc ngoài hiên nhà. Bác ra mở cửa gọi em vào trong nhà hỏi chuyện. Em cho biết em đang đi vào rừng kiếm củi về nấu nước xông cho mẹ em đã trúng cảm nặng từ hai ngày nay. Rồi em gặp trời mưa tuyết. Tuyết rơi phủ trắng mặt đất, khiến em không thể tìm ra lối về nhà. Nghe vậy, bác thợ giày vội lấy giấy bút viết vài chữ để lại trên cánh cửa ra vào báo cho vị khách quý biết mình phải giúp đưa em nhỏ về nhà. Khi kiếm ra nhà và nhìn thấy tình cảnh của mẹ em đang đau nặng mà không người săn sóc thuốc men, bác tình nguyện đưa bà đến thầy thuốc bắt mạch ra toa và mua thuốc rồi đưa bà trở về nhà. Khi thấy tình trạng cơn bệnh của bà đã ổn, bác trở về nhà mình vào khoảng nửa đêm và nằm vật ra giường ngủ say.

Rồi trong giấc ngủ, bác lại gặp được Chúa, và Người đã phán với bác :

"Ta cám ơn con, vì hôm nay con đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm khi Ta bị rét lạnh. Ta cũng cám ơn con vì con đã dẫn đường cho Ta về nhà an toàn. Ta còn cám ơn vì con đã chăm sóc an ủi và giúp ta chữa bệnh. Vì khi con làm cho người nghèo khó tật bệnh.. . là con đã làm cho chính Ta" (x Mt 25, 40.45).

Đây là một cách Chúa đến. Chúa còn đến bằng nhiều cách khác nữa như qua Lời Chúa trong Thánh Kinh, qua các biến cố trong đời sống của ta, qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể khi rước lễ, qua tiếng lương tâm. Đặc biệt Chúa sẽ đến cách bất ngờ vào giờ chết của mỗi người và trong ngày tận thế của chung toàn nhân loại. Chúng ta phải làm gì để đón Chúa đến và xứng đáng được Chúa cho chia sẻ bàn tiệc Nước Trời đời đời với Người ?

PHẢI LUÔN CANH THỨC
"Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi ?" Đó là câu hỏi của một thầy giáo đã đặt ra cho 625 học sinh cấp ba người Đức trong 12 trường và kết quả như sau :

+ 20% được hỏi liền trả lời : "Chúng em sẽ dùng thời gian còn lại ấy để làm những điều các thầy cô và cha mẹ cấm cản : Uống rượu, hút chích sì-ke ma túy và thoả mãn các dục vọng đam mê cho thỏa thích !".

+ Đại đa số các em trả lời : Em sẽ ở nhà gặp gỡ từ giã cha mẹ, anh chị em, và bạn bè thân quen.

+ Riêng có một nữ sinh 18 tuổi đã trả lời rằng : "Em sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng trước khi em được gặp Chúa. Em sẽ dành buổi tối cuối cùng để gặp Chúa và cảm tạ Người vì Người đã ban cho em có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc bấy lâu nay".

Chúa sẽ đến bất ngờ. Có thể hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ chết của mình ? Chúa đòi chúng ta phải canh thức chờ đợi đón Chúa đến và luôn ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng bằng một đời sống mến Chúa yêu người nhu Người đã dạy.

3) SUY NIỆM : PHẢI VỪA MANG ĐÈN VỪA ĐEM DẦU THEO.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng chưa quên sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 vừa qua tại thành phố Nữu Ước Hoa Kỳ. Bọn không tặc đã cướp mấy chiếc máy bay hành khách và hai chiếc trực chỉ bay vào tòa tháp đôi trung tâm thương mại, biểu tượng cho nền kinh tế Hoa Kỳ, khiến cả hai tòa tháp đều bị sụp đổ, chôn vùi cả khoảng sáu ngàn người dưới đống gạch đổ nát. Cái chết của những người này nhắc nhở chúng ta về cái chết đến thật bất ngờ.

Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng nhắc nhở các tín hữu chúng ta rằng : Chúa Ki-tô như chú rể trong dụ ngôn, sẽ đến bất ngờ vào lúc nửa đêm, khi mọi người đều ngủ say. Chúng ta phải có sự chuẩn bị sẵn sàng, giống như năm cô trinh nữ khôn ngoan, tay cầm cây đèn cháy sáng ra đón chú rể. Còn năm cô dại vì không phòng xa, nên không chuẩn bị mang theo bình dầu. Khi biết cây đèn của mình hết dầu, các cô không thể vay mượn và đành đi mua dầu vào giữa đêm khuya. Nhưng khi mua được dầu thì lại quá muộn ! Các cô đã phải trả giá cho sự khờ dại vì thiếu chuẩn bị của mình, khi bị loại ra khỏi bàn tiệc cưới Nước Trời : "Tôi bảo thật các cô : Tôi không biết các cô!"

Khi ấy các cô khờ dại không thể trách chú rể vì đã chậm trễ, hay trách các cô khôn kia vì đã ích kỷ không chia sẻ dầu trong lúc cấp bách. Vì lúc đó họ cũng cần đủ dầu để thấp sáng cho bữa tiệc cưới sẽ kéo dài lâu giờ vào giữa đêm khuya. Các cô chỉ nên trách mình vì quá chểnh mảng, không lo phòng bị trước bằng việc mang theo bình dầu dự trữ.

Như vậy có đèn cũng chưa đủ, mà cây đèn còn phải có khả năng tỏa sáng, nhất là vào lúc Chúa đến bất ngờ trong giờ chết. Chịu phép rửa tội để trở thành tín hữu cũng chưa đủ ! Tham gia vào các hội đoàn tông đồ giáo dân cũng chưa đủ ! Cần phải tìm hiểu ý Chúa muốn và làm theo Thánh ý của Người, phải đáp ứng trước những đòi hỏi của Chúa. Mà đòi hỏi lớn là sống tình mến Chúa yêu người.

Ngày nay trong Hội Thánh vẫn luôn có những người tín hữu khôn ngoan và khờ dại. Có những người đã có cây đèn đức tin, nhưng đèn đã hết dầu ân sủng từ lâu rồi mà họ không quan tâm. Do đó, họ cứ sống buông thả theo các dục vọng đam mê và không tỏa ánh sáng tin yêu ra trước mặt người đời. Còn chúng ta cần phải chăm sóc cho cây đèn đức tin của mình hằng ngày. Cần đổ thêm dầu ân sủng bằng việc năng lãnh nhận các phép bí tích, nhất là năng xưng tội rước lễ. Cần chiếu sáng đức tin trong cuộc sống qua cách suy nghĩ, nói năng và hành động theo lời Chúa dạy và luôn tỏ lòng nhân ái, khiêm nhường phục vụ tha nhân.

Hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào !

Canh thức không phải là không ngủ. Tất cả các cô trinh nữ đều thiếp ngủ, thế nhưng các cô khôn ngoan vẫn luôn sẵn sàng. Sự sẵn sàng đó được chứng tỏ qua việc chu toàn nhiệm vụ của mình. Như vậy tỉnh thức không phải chỉ là việc năng đi lễ nhà thờ, năng đọc kinh cầu nguyện sớm tối. Nhưng tỉnh thức chính là siêng năng học hỏi Lời Chúa và quyết tâm sống theo những Lời Chúa dạy. Tỉnh thức là noi gương Đức Ma-ri-a : luôn ghi nhớ những sự kiện xảy ra trong cuộc đời mình để suy đi nghĩ lại trong lòng, để biết ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì ?

Chẳng ai biết giờ chết của mình và lúc nào sẽ là ngày tận thế. Chẳng ai biết Chúa sẽ hẹn gặp mình ở đâu, trong biến cố nào và nơi những người nào. Do đó chúng ta phải tỉnh thức luôn, kể cả khi đang làm việc hay trong lúc ngủ say. Chỉ những ai ý thức mình đang mê ngủ trong tội lỗi và biết thành tâm sám hối, thì mới có thái độ tỉnh thức thực sự. Đừng để khi Chúa đến bất ngờ, mà thấy chúng ta đang lơ là nhiệm vụ Chúa trao, ham mê cờ bạc rượu chè, chích hút sì-ke ma túy hay ham mê hưởng thụ các lạc thú bất chính. Bàn tiệc Nước Trời đời sau đang chờ những ai "tuy đang sống giữa thế gian nhưng không thuộc về trần gian" đến tham dự. Vậy tôi có đủ điều kiện để được dự bàn tiệc Nước Trời đời sau hay không ?

4) THẢO LUẬN :
1. Dầu mà mỗi người chúng ta cần chuẩn bị cho cây đèn đức tin là gì ?
2. Anh sáng phát ra từ cây đèn đức tin là thứ ánh sáng nào ?
3. Hôm nay tôi phải làm gì để chứng tỏ mình là người khôn biết phòng xa và luôn chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến?

III. HIỆP SỐNG CẦU NGUYỆN
LẠY CHÚA GIÊSU. Nếu ngày mai Chúa đến gọi con về thì chắc là con sẽ vô cùng lúng túng. Con lúng túng vì cho đến giờ này con vẫn chưa làm được gì để chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng Chúa trao, trong ngày con chịu bí tích rửa tội và thêm sức ! Cây đèn đức tin của con hiện vẫn luôn thiếu dầu ơn sủng, nên con chưa thể cháy sáng yêu thương, chưa thể soi sáng cho người ngoài nhận biết tin thờ và yêu mến Chúa.

LẠY CHÚA. Xin cho con luôn biết chuẩn bị bình dầu kèm theo cây đèn của mình, để khi Chúa đến, con sẽ cùng mọi người hân hoan ra đón Chúa, và xứng đáng được Chúa cho vào dự tiệc vui đời sau. Xin cho con mỗi tối trước khi đi ngủ biết dành ít phút, tự kiểm điểm xem cây đèn đức tin của con hiện ra sao, để kịp thời chấn chỉnh sửa chữa. Xin cho mỗi ngày con làm thêm được nhiều việc tốt, để ánh sáng tình yêu sẽ giúp cho nhiều người nhìn thấy Chúa trong con, và sẽ cùng chia sẻ niền tin yêu Chúa với con, hầu sau này họ cũng được tham dự tiệc cưới Nước Trời đời đời với con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LẠY MẸ MARIA. Mười cô trinh nữ hôm nay là hình ảnh tượng trưng cho tất cả mọi tín hữu chúng con. Xin cho chúng con được liệt vào hàng ngũ những cô trinh nữ khôn ngoan, luôn chuẩn bị dầu ơn sủng kèm theo, để cây đèn đức tin của chúng con có thể cháy sáng lòng mến Chúa yêu người. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chết đi cho các ý riêng ích kỷ, chết đi cho những đam mê tội lỗi bất chính, chết đi cho sự lười biếng việc đạo, cho sự thờ ơ trước nỗi khổ đau của đồng loại.

LẠY MẸ. Ước gì giờ Chúa đến, chúng con xứng đáng được cùng với Mẹ gia nhập vào hàng ngũ những cô trinh nữ khôn ngoan, tay cầm cây đèn cháy sáng, để cùng Đức Kitô vào tham dự bàn tiệc Nước Trời. Xin cho chúng con thực hành theo lời một người cha khuyên bảo con trai thân yêu của mình như sau: "Con ơi, ngày con sinh ra, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con được mỉm cười" (Guy de Larigandie).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CHÚA NHẬT THỨ 32 MÙA THƯỜNG NIÊN
Mt 25, 1 – 13
Lm Phêrô Trần Văn

 “Vậy anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Lời Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người tín hữu hãy luôn giữ mình trong tư thế sẳn sàng khi Ngài đến, lý do là vì chúng ta không được biết trước!

Cuộc sống mỗi người tuy có vẻ liên tục như giòng Hương giang lững lờ trôi, nhưng nếu suy nghĩ thật kỹ, lại là một chuỗi những biến cố chết đi và sống lại. Một ký gĩa đã kể về thời thơ ấu của mình. Trước khi cậu được mười tuổi, gia đình cậu đã phải di chuyển chỗ ở đến năm lần, mỗi lần đều dọn vào một khu xóm mới. Hình ảnh sống động nhất về mỗi lần dọn nhà còn lưu lại trong cậu là nhìn thấy mẹ cậu khóc sướt mướt trong căn nhà mới. Cậu nhớ lại hình ảnh của mẹ buồn tan nát cỏi lòng, khóc thổn thức khi mở những thùng đồ đạc để xếp đặt chúng vào nhà mới. Cậu nhớ lời của bố vẫn thường bảo: “Con đừng lo, rồi mẹ con sẽ được bình an trở lại. Mẹ con đang tạm biệt những người bạn cũ và sẽ quen những bạn mới ở đây. Bố con mình cứ để cho mẹ được tự nhiên bày tỏ nỗi lòng.

Helen Hayes một diễn viên nổi tiếng người Mỹ đã từng tâm sự rằng, giai đoạn đau khổ nhất đời của cô là thời gian sau khi người con gái mười chín tuổi thân yêu của cô bị chết vì bệnh sốt tê liệt. Cô cho rằng trong cùng cực đớn đau mà phải gom hết tàn lực để tiếp tục vươn tới với cuộc sống là điều đau đớn nhất cô đã từng thực hiện. Nhưng cô đã hoàn thành được điều đó, tiếp tục con đường sự nghiệp và đã làm những công tác tốt đẹp giúp ngăn ngừa căn bệnh ác tính này. Bác sĩ Jonas Salk đã có lần bảo với cô: “Chị chính là khí cụ hữu hiệu nhất tôi có được trong trận chiến chống lại cơn bệnh hiểm nghèo này.” Cách đây chừng bảy năm, cô Hayes gom tóm hết tài sản chất đầy cả một ngôi nhà lớn, rồi bán đấu giá cho công chúng rồi dâng cúng trọn số tiền cho hội từ thiện. Khi được hỏi về chuyện này, cô đã trả lời: “Tôi muốn từ biệt với những sự vật của dĩ vãng để có thể tiến vào tương lai không bị vướng bận.” Từ bỏ! Không vướng bận! Tiến vào tương lai! Chết đi và tái sinh! Đó chính là những bước liên tục và đều đặn ta cần phải thực hiện. Như mỗi bước chân vững vàng cứ lập lại sẽ dẫn ta về đến đích bình an.

CẢNH GIÁC và SẲN SÀNG ĐÓN CHÚA
Mt 25, 1 – 13
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.

Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.

Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Ki-tô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!

Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Ki-tô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.

Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Ki-tô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.

- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.

- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Ki-tô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?

Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Ki-tô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang...), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Ki-tô là ánh sáng thế gian.

CHÚA NHẬT THỨ 32 MÙA THƯỜNG NIÊN
Mt 25, 1 – 13
Lm Augustine S.J.
Cô gái người Ðức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 khi vừa tròn 24 tuổi, giữa lúc cuộc đời còn tràn đầy sức sống. Trước lúc từ trần, cô đã để lại những dòng chữ thật tuyệt vời trong quyển nhật ký của mình.

"
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người." (Rm 8,28)

"Cách đây một năm, lúc đó tôi vừa phải dọn bài thi y khoa khá quan trọng, vừa cùng các bạn sửa soạn cho ra một tờ báo trẻ. Tôi cảm thấy mệt mỏi nên đã đi khám bệnh và phải trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Sau lần siêu âm đầu tiên, tôi biết chắc mình đã mắc một chứng bệnh khá trầm trọng. Tôi cảm thấy bất lực. Mọi việc tôi làm trở thành vô dụng và không còn gì đáng kể nữa. Mới được 22 tuổi, không nghĩ mình có thể chết trẻ như vậy được, tất cả con người tôi nổi dậy chống lại viễn cảnh đen tối ấy.

Ngày hôm sau bác sĩ đến cho biết tôi mắc bệnh Hodgkin, một chứng bệnh gây sưng lá lách, gan và thận. Tôi không cầm được nước mắt vì biết đó là một căn bệnh nan y. Nhưng ngay lúc đó tôi nhớ đến lời của thánh Phaolô: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Tôi cũng nghĩ đến Chúa Giêsu lúc Ngài phải vác thánh giá và xin vâng theo thánh ý Chúa Cha, tâm hồn tôi tràn ngập bình an.

Nhiều khi vừa học bài tôi vừa nghĩ: "Nhưng Chúa Giêsu sẽ hỏi mình điều gì trong kỳ thi cuối cùng? Ta đói và con đã cho ta ăn... Ðiều này đã giúp tôi không chú trọng vào chuyện thi cử, nhưng vào chuyện yêu thương người khác, sửa soạn một bữa điểm tâm chẳng hạn, hay làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào với tình thương yêu.

Cô Johanna cầm đèn sáng đi đón chàng rể: "Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu"
Có lúc tôi muốn bỏ hẳn việc học hành vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp hành nghề. Nhưng tôi đã xua đuổi ý nghĩ này ngay, vì thánh ý của Chúa rất rõ với tôi trong phút hiện tại: tôi phải tiếp tục học. Học mà không cần nghĩ đến đậu hay rớt. Cứ thế tôi sửa soạn mỗi ngày cho cái chết của tôi: Vâng theo thánh ý Chúa, chẳng ai tự dưng mà nên thánh. Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu: việc học, cách cư xử với người khác, mọi chuyện lặt vặt, vì tôi không thể làm những việc lớn.

Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sự, nhưng trước hết, tôi mong chờ tình thương yêu của Chúa như một chút mùi vị của Thiên Ðàng được nếm trước..." (trích theo Ðỗ Minh Trí, SJ., Ði Tìm Anh Em; trang 177-178)

Những dòng chữ trên đây của cô Johanna phần nào giúp ta dễ lãnh hội nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, nhất là tinh thần sẵn sàng đón Chúa của người Kitô hữu.

Có một điều chắc chắn đó là ai cũng phải đối diện với cái chết một lần, nhưng điều này xảy ra vào lúc nào thì không ai lường trước được cả. Ðối diện với sự thật này, con người có những thái độ khác nhau. Có người thì sợ hãi đến nỗi tìm cách chối bỏ, coi như không có cái chết, bằng việc lao vào những thú vui xác thịt, thế trần... Nhưng cũng có người bình thản đón nhận cái chết y như ý Chúa muốn.

Niềm tin Kitô cho ta biết ý nghĩa của sự chết, đó chính là lúc Ðức Kitô trở lại để đem ta về với Ngài, để Ngài ở đâu thì ta cũng sẽ ở đó cùng Ngài (x. Ga 14,3). Ðó cũng là lúc Ngài cất khỏi lòng ta mọi buồn phiền lo lắng và ban cho ta niềm vui trọn vẹn (x.Ga 16,22).

Việc đón chờ Ðức Kitô của người Kitô hữu, được sánh với việc các cô trinh nữ cầm đèn sáng đi đón chàng rể trong dịp lễ cưới. Các cô là những người được tuyển chọn và được mời vào hưởng niềm vui của bàn tiệc. Như các cô trinh nữ trong dụ ngôn, người Kitô hữu cũng được tuyển chọn bởi Cha (x.Ga 17,6) và bởi Ðức Giêsu: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15,16). Ðáp lại điều "được tuyển chọn", các cô trinh nữ phải chăm lo chu toàn bổn phận được trao phó cho mình, đó là sửa soạn dầu đèn cho chu đáo. Cũng vậy, người Kitô hữu đáp lại tình yêu Chúa dành cho mình, qua việc Ngài tuyển chọn mình, bằng nỗ lực chu toàn bổn phận của người môn đệ đi theo Ðức Kitô.

Ðức Kitô hằng vâng theo thánh ý Cha, bất chấp những đau khổ và cái chết mà Ngài phải nếm chịu, trải qua. Bước theo Ngài, người Kitô hữu cũng không ngần ngại trải qua nhiều đau khổ để học thưa tiếng xin vâng ý Cha như Ngài (x.Dt 5,8). Chỉ có những cô trinh nữ chu toàn bổn phận chăm lo đèn dầu đầy đủ mới được hưởng niềm vui của bàn tiệc cưới. Cũng vậy, chỉ có những Kitô hữu nào sống trọn tinh thần xin vâng ý Chúa như Thầy của mình mới được vui hưởng chính hạnh phúc Thiên Ðàng của Thầy (x. Ga 17,13).

Khi Thiên Chúa tuyển chọn một ai, Ngài không đòi người đó phải làm những điều lớn lao vượt sức mình; ngược lại, Ngài mời họ làm những công việc bổn phận bé nhỏ bằng một tình yêu vĩ đại. Làm việc vì yêu mến là cách thế tuyệt hảo của sự đáp trả trước sự kiện được tuyển chọn vì yêu. Người Kitô hữu biết chắc rằng, Ðức Kitô đang đợi chờ mình ở cuối đường đời, tựa như chàng rể sẽ có lúc gặp gỡ những cô trinh nữ đang cầm đèn cháy sáng, để chính Ngài ngỏ lời cùng họ: "Hỡi kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa..." (Mt 25,34). Hạnh phúc thay cho những ai đã không ngừng sống đời yêu mến, luôn thưa tiếng xin vâng ý Chúa! Họ quả thực là những cô trinh nữ khôn ngoan: luôn chăm lo cho bình dầu tình yêu hằng ở mức dư tràn, để lòng mình hằng hướng về việc đón chờ Chúa Kitô trở lại.

Giáo Hội nhắc nhở các Kitô hữu: Quê hương chúng ta ở trên trời (x. Pl 3,20)

Chúng ta đang sống trong những tuần lễ cuối năm phụng vụ. Khi sử dụng đoạn Mt 25,1-13 làm bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật 32 Thường Niên này, Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta đích điểm của đời mình là vui hưởng hạnh phúc Quê Trời. Như bao con người khác, người Kitô hữu chúng ta cũng có một lần giã biệt cõi đời. Thế nhưng đó không phải là điều kinh hoàng khiến ta hoảng sợ. Ngược lại, đó là ngày vui mừng khôn tả, ngày ta được trọn vẹn đi vào kết hiệp với Chúa. Thái độ của người Kitô hữu đứng trước cái chết phải là thái độ thanh thản, tin yêu và đợi chờ. Ðức Kitô chắc chắn sẽ trở lại để gặp gỡ mỗi người chúng ta trong giờ chết của mình. Vậy chúng ta cần nỗ lực chờ đợi Ngài với đôi tay luôn cầm đèn cháy sáng, đó chính là việc luôn chu toàn thánh ý Chúa bằng một tình yêu trổi vượt.

Như cô Johanna, cũng có lúc ta thấy mình ham sống và sợ chết, nhất là khi đời ta còn trẻ, việc ta còn nhiều... Cô Johanna đã biết nhìn lên Ðức Giêsu để học với Ngài thái độ vâng phục kế hoạch nhiệm mầu mà Chúa muốn dành cho cô. Cô cũng sẵn sàng để cho Lời Chúa dìu dắt mình đi, giữa lúc bản thân mình gần như bất lực. Cô đã tìm thấy sự bình an đích thực khi buông mình cho thánh ý Chúa, một sự bình an do chính Ðức Kitô ban tặng (x. Ga 14,27). Cô đã cảm nhận hạnh phúc Thiên Ðàng ngay khi còn tại thế. Gương sống của cô Johanna cũng là lời mời gọi cụ thể của Chúa muốn ngỏ cùng ta là những môn đệ của Ngài: Hãy phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa, đó là cách duy nhất ta đáp lại tình yêu Ngài. Sự phó thác trọn vẹn này phải được cụ thể hoá qua cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại của ta trong tình yêu. Lòng ta chắc chắn sẽ cảm nhận niềm vui náo nức của Thiên Ðàng ngay tại thế, khi ta hướng trọn về Ðức Kitô, tựa như các cô trinh nữ đã sẵn sàng dầu đèn để đón chờ chàng rể đến, bất chấp sự trễ muộn.

Tình yêu Chúa nơi lòng ta cũng có thể bị tàn lụi khi ta không hâm nóng nó bằng những công việc phục vụ anh em mình. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng tình yêu đó là sống tình yêu. Nhờ tình yêu mãnh liệt, người Kitô hữu can đảm sống đời mình từng ngày trong niềm hy vọng vui hưởng Nước Trời, đó là hạnh phúc bất tận mà Thiên Chúa hằng dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài.

CHÚA NHẬT XXXII MÙA THƯỜNG NIÊN
Mt 25, 1 – 13
JKN

 1. Mô tả lại dụ ngôn
Theo phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn. Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp, chờ đợi... trở thành «công cốc»!

2. Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở thành «sôi hỏng bỏng không», «nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Dụ ngôn trên có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng. Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu... để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.

Rất nhiều Ki-tô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin cho mình được «ái mộ những sự trên trời» (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Ki-tô hữu ấy có được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Ki-tô hữu đang cố gắng thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Ki-tô hữu được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!» (Mt 7, 23). Để tránh tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.

2. Nước Trời là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống vị tha
Nước Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét, hận thù. .. thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người mới vào được Nước Trời.

3. «Đức tin đắt giá» và «đức tin rẻ tiền»
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì «người ta được trở nên công chính nhờ đức tin» (Rm 3, 22); «Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính» (4, 3). Chúng ta, những Ki-tô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Gia-cô-bê thì đó là «đức tin có việc làm» và «đức tin không việc làm». Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là «đức tin đắt giá» và «đức tin rẻ tiền».

«Đức tin đắt giá» là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là «đắt giá» là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn «đức tin rẻ tiền» là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: «Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,14.17). «Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng» (2,20).

Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: «tình yêu đắt giá» và «tình yêu rẻ tiền», nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Gia-cô-bê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: «Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?» (Gc 2,15-16).

Tóm lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su Ki-tô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm, tức thứ «đức tin đắt giá». Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giê-su mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).

Vậy cái «» cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là
tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là «đèn có dầu» để chúng ta - những «cô phù dâu» - thắp sáng lên khi đón «chàng rể» - là Đức Ki-tô - vào «tiệc cưới Nước Trời».

Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con. Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.

10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC
Mt 25, 1 – 13
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu thường kể chuyện những bữa tiệc, những đám cưới, những bữa ăn thanh đạm, mà đám nào cũng có những sự cố không vui. Một hôm trong một bữa tiệc cưới khách mời lại không tới, nên chủ tiệc sai các đầy tớ ra đường mời bất cứ người nào gặp thấy vào ngồi dự tiệc cưới. Một hôm khác, Chúa Giêsu đem ra ví dụ trong một bữa tiệc một người ham ngồi ghế nhất bị chủ kéo xuống bàn chót. Lần khác, Chúa kể chuyện một người đi ăn tiệc, không ăn mặc đúng kiểu, đúng mốt, nên bị đầy vào chỗ tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Thật là những bữa tiệc, những đám cưới thật kỳ khôi, bao giờ cũng có sự cố.

Bài Tin mừng hôm nay của Đức Giêsu nói đến bữa tiệc cánh chung, ngày cùng tận, ngày tận thế. Chúa Giêsu đã tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi của các môn đệ:” khi nào những sự việc ấy sẽ xẩy ra ? “. Chúa Giêsu đã kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho các môn đệ phải chuẩn bị, phải tỉnh thức, phải cầu nguyện như thế nào. Các dụ ngôn về sự tỉnh thức mà các chủ nhật trước trình bầy cho chúng ta là những minh họa về việc đó. Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thủy và ông Noe để so sánh( Mt 24, 37-42 ). Qua câu chuyện này chỉ mình ông Noe biết trước đại hồng thủy để chuẩn bị. Chúa dùng dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết:” nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu”.Và kết luận:” cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Chúa liên kết dụ ngôn này với dụ ngôn người đầy tớ trung tín:” Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy”. Chúa Giêsu tiếp tục kể câu chuyện về mười cô trinh nữ đi dự tiệc cưới. Đây là câu chuyện rất bình thường ở Palestine thời đó: cô dâu phải ở nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè tới rước. Chú rể đến cách long trọng để đón cô dâu về nhà mình để tổ chức đám cưới cùng với đám rước linh đình, đưa cô dâu tiến vào tận phòng cưới. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy có nhiều chi tiết thật kỳ quặc. Mười cô trinh nữ đợi chàng rể đến mòn mỏi, đến nỗi các cô đều thiếp ngủ cả.Đèn thì cái có dầu, cái không. Có cô dự trữ dầu, có cô không dự phòng dầu. Tất cả chi tiết đều hết sức kỳ cục, nhưng cái kỳ quặc lớn nhất vẫn là không thấy bóng cô dâu đâu cả. Tuy nhiên đây lại là chi tiết quan trọng nhất. Cô dâu ở đâu ? Tại sao cô dâu lại vắng mặt trong tiệc cưới ? Các thính giả và độc giả nghe Chúa Giêsu kể chuyện, hẳn là những người rành Kinh Thánh: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người. Cô dâu vắng mặt ấy chính là dân tộc Israen, mà các ngôn sứ hay đem so sánh với một nàng dâu. Còn tiệc cưới ám chỉ Vương quốc của Thiên Chúa. Việc vào Vương quốc mở rộng cho mọi dân, mọi nước, cuối cùng sẽ là bữa tiệc cưới tình nghĩa giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đây là một ngày vui cho toàn thể nhân loại.

Dụ ngôn mười cô trinh nữ được Chúa gửi tới các thính giả Do Thái vẫn có giá trị đối với mọi người muôn thời. Chúa thôi thúc con người phải tỉnh thức, vì nhân loại không thể biết giờ chú rể đến, ngày Chúa trở lại. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, các cô được mời, không có nghĩa là được dự tiệc cưới. Là Kitô hữu không chưa đủ mà còn phải biết nghe và thực thi lời Chúa. Mang danh có đạo không vẫn chưa đủ, nhưng người Kitô hữu phải biết giữ và sống đạo với tất cả lòng tin của mình. Cl. Tassin viết một câu rất chí lý:” Để được dự vào bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa “. Chuẩn bị sẵn sàng là đức tính khôn ngoan của Kinh Thánh.

Xin Chúa ban cho chúng ta biết tỉnh thức và khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan để đón chờ chàng rể đến.

SẲN SÀNG
Mt 25, 1 – 13

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.

Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.

Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau : một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không ? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không ? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng : chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.

Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau : Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ : “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu “Sau sáu…”nghĩa là gì ? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng ? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng : sau sáu tuần chăng ? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng ? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng ? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.

Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta : hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.

Chúng ta hãy nhớ : một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.

KHÔN NGOAN
Mt 25, 1 – 13
Lm Trần Thanh Sơn

Khi đọc đoạn Tin mừng hôm nay đến chỗ 5 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể trong đêm mà không đem dầu theo, tôi lại nhớ đến vụ cháy lớn xảy ra cách đây 3 năm, vào ngày 29/10/2002, tại khu Trung Tâm Thương mại quốc tế thuộc thành phố Sàigòn. Vụ cháy này đã làm chết 61 người, cùng với hàng trăm người bị thương khá nặng, khả năng hồi phục rất khó khăn, kèm với thiệt hại về vật chất lên đến khoảng chừng 100 tỷ đồng. Khi vụ cháy xảy ra lực lượng chữa cháy của Thành phố Sàigòn đã nhanh chóng tới để cố gắng dập tắt ngọn lửa, và nhiều người đã không quản ngại hy sinh để giúp những người bị nạn.

Thế nhưng, có một vài điều làm tôi suy nghĩ: đó là có một chiếc xe mang biển số 0038 trong đoàn xe chữa lửa hôm ấy không thể tới nơi được để làm nhiệm vụ, chỉ vì một lý do rất đơn giản: xe đang chạy giữa đường thì hết nhiên liệu (Báo Tiền Phong tuần 28/10-3/11/2002; Tam hà 5/11/2002). Còn bồn nước dự phòng ở toà nhà này chỉ có 10 m3 nước, số nước mà trên lý thuyết chỉ có thể dùng để chữa cháy cho một diện tích 5000 m2 trong vòng … 10’. Vậy là lực lượng cứu hoả phải chạy ra sông Saigon cách đó 5 km để lấy nước.

Xe cứu hoả thì hết nhiên liệu, bồn nước chữa lửa thì hết nước. Tôi thiết nghĩ, nếu chiếc xe cứu hoả ấy tới kịp lúc và lượng nước tại chổ có nhiều hơn có lẽ thiệt hại về người và của có thể đã được giảm bớt. Nhưng, dù nói gì đi nữa, đây cũng là lỗi của những người có trách nhiệm trực tiếp. Họ chỉ nhìn thấy xe mà không biết trong xe có còn nhiên liệu hay không, thấy bồn nước, nhưng không đánh giá được rằng: lượng nước đó chẳng là gì đối với công việc chữa cháy. Họ chỉ thấy bên ngoài, mà không đánh giá đủ thực chất ở bên trong. Họ cũng giống như 5 cô trinh nữ trong bài Tin mừng, những người mà Tin mừng gọi là “khờ dại”, cầm đèn mà không mang dầu theo. Họ thiếu sự khôn ngoan cần thiết. Nhờ khôn ngoan, chúng ta lượng định được đâu là điều chính, đâu là điều phụ; điều gì là phải làm, điều gì không nên làm để đạt được hạnh phúc thật. Do đó, dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về đức tính này.

1. Dại và khôn theo Thánh kinh:
Theo Thánh kinh, trước hết, người khôn là người không chỉ nghe mà còn sống lời Chúa, còn người dại là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành như lời của Đức Giêsu: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Đức Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21)

Tuy nhiên, để thực sự có được sự khôn ngoan này, mỗi người chúng ta cần một có một sự cố gắng liên lỷ, một nỗ lực đi ngược lại với những suy nghĩ theo sự khôn ngoan tự nhiên của con người. Tác giả sách Khôn ngoan tuyên bố: “Những ai yêu mến sự khôn ngoan, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước… Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình”. Vâng, sự khôn ngoan chỉ đón tiếp những ai khao khát nó và nó chỉ tỏ mình ra cho những ai xứng đáng với nó. Tới đây, nhìn lại bản thân mình, tôi và quý ông bà anh chị em đã có một lần nào nỗ lực để đạt được sự khôn ngoan này chưa? Nghĩa là chúng ta đã có một lần nào cố gắng để sống đúng với lời Chúa dạy hay chưa? Hay là chúng ta cũng giống như 5 cô cầm đèn mà không có dầu, giống như anh tài xế kia lái xe mà xe không có nhiên liệu? Chúng ta chỉ có cái đèn, nghĩa là có tên gọi kitô hữu, nhưng thực tế trong cuộc sống, chúng ta chưa một lần cố gắng sống đúng với tên gọi kitô hữu. Chúng ta chưa một lần, cố gắng lắng nghe và sống đúng với lời Chúa dạy. Chúng ta dùng đủ mọi lý do để biện minh cho mình: Nào là cuộc sống của tôi còn quá khó khăn, nào là hoàn cảnh không cho phép, thậm chí có những người còn tuyên bố: “Tôi chưa có ý định nên thánh. Cuộc sống còn dài. Vội gì mà phải lo đến việc linh hồn”. Chúng ta nêu ra thật nhiều lý do, nhưng sâu xa nhất, có lẽ chỉ vì chúng ta lười biếng, chúng ta ngại cố gắng, chúng ta chưa ý thức đủ tầm quan trọng của việc nghe và sống lời Chúa. Chúng ta cần nhớ rằng: Mọi sự trì hoãn đều có thể đưa tới sự lỡ làng. Sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta còn có thể bắt đầu lại, còn có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong chuyến xe cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại nữa, và khi ấy hậu quả thật là bi thảm. Vì nếu chỉ có một tên gọi kitô hữu, nghĩa là một cái đèn không dầu, một cái xe không có nhiên liệu, chúng ta có thể nghe lời Chúa nói: “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”.

Mặt khác, chính nhờ sự khôn ngoan luôn lắng nghe lời Chúa, chúng ta sẽ luôn ý thức rằng: không ai sống mãi, nhưng sẽ có ngày phải chết và ra trình diện với Thiên Chúa. Chúng ta thường cố quên đi chân lý này, không muốn đối diện với nó. Nhưng cho dù chúng ta có chạy trốn và không muốn nói đến nó, thì nó vẫn là sự thật.

2. Chàng rể đến muộn:
Tin mừng ghi lại mãi cho đến nửa đêm, đang khi các cô đi đón chàng rể thiếp ngủ vì mệt mỏi chờ đợi, mới có tiếng hô to: “Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người”. Như thế, dù muộn, chàng rể vẫn đến và những ai khôn ngoan, sẵn sàng sẽ được vào dự tiệc cưới với Ngài. Chính vì Chúa đến muộn và không biết vào lúc nào, nên các tín hữu thời sơ khai đã rơi vào tình trạng “thức lâu, chầu mỏi”. Họ thắc mắc không biết liệu Chúa có tái lâm thật không? Các tín hữu đã chết có được gặp Chúa không? Đứng trước những băn khoăn đó, thánh Phaolô khẳng định: “Chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng”. Vâng, là kitô hữu, chúng ta không có quyền sống như những kẻ không có niềm tin. Cuộc sống của chúng ta phải là một minh chứng cho niềm hy vọng sống lại. Cách sống của chúng ta phải nói lên cho mọi người biết rằng “quê hương chúng ta là ở trên trời” (Pl 3, 20). Và thánh Phaolô còn khẳng định với chúng ta: “những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”. “Đã chết nhờ Đức Giêsu”, nghĩa là chúng ta không còn sống cho chính mình, nhưng là sống theo lời của Đức Giêsu (x. Gl 2, 20).

Giờ đây, để được vào dự tiệc cưới của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta hãy bắt chước 5 cô trinh nữ khôn ngoan, không chỉ cầm đèn mà còn mang theo bình dầu. Nghĩa là luôn lắng nghe và nhất là sống những điều Chúa dạy ngay trong cuộc sống đời thường, trong những việc bình thường nhất. Đối với Chúa, ít ra chúng ta hãy trả lại cho Thiên Chúa thời gian thuộc về Thiên Chúa. Mỗi tuần một Thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta hãy tham dự một cách đầy đủ, sốt sắng, đừng cắt đầu bớt đuôi, đừng so đo, tính toán với Chúa, vì biết đâu đây chẳng là Thánh lễ cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Đối với bản thân, với những người trong gia đình và tha nhân: Chúng ta hãy sống bác ái, tha thứ, thông cảm, khiêm tốn, hãy vượt thắng những đam mê, ích kỷ, những ù lì trong đời sống thiêng liêng. Nhờ đó, khi nghe tiếng loa của Thiên Chúa, từng người sẽ được đi đón Đức Kitô và được ở với Người luôn mãi. Amen.

HÃY SẲN SÀNG ĐỂ ĐÓN CHÚA
Mt 25, 1 – 13

Sr Mai An Linh, OP

 “Tỉnh thức” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt ba bài đọc Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay. Có tỉnh thức mới gặp được sự khôn ngoan (Kn.6,13-17). Mà khôn ngoan là điều cần thiết để có thể đối phó với mọi nghịch cảnh (Mt.25,1-13). Tuy nhiên, đừng nản lòng trong việc tỉnh thức chờ đón sự khôn ngoan để rồi sao lãng ngày Chúa Quang Lâm (1Tx.4,12-17). Tỉnh thức là trạng thái tâm hồn luôn luôn mở ra để sẵn sàng tiếp nhận những biến cố xẩy tới, là ý thức những nguy cơ tiềm ẩn, hay nói đúng hơn : Tỉnh thức là sự khôn ngoan.

Trong dụ ngôn mười cô trinh nữ, năm cô khôn ngoan là những cô biết sẵn sàng trong bất cứ tình huống nào. Như vậy khôn ngoan lại có nghĩa là thi hành ý Thiên Chúa, đó là thứ khôn ngoan mà Chúa Giêsu đã ví như người khôn xây nhà trên đá, chính là nghe Lời Chúa mà thi hành và Chúa Giêsu đã từng dặn dò các môn đệ “ Hãy khôn ngoan như con rắn và chân thật như chim câu”(Mt. 10,16). Ngài cũng khen ngợi ngừơi đầy tớ tín trung và khôn ngoan mà ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân mình để đúng giời phân phát lúa thóc cho họ (x.Mt.24,45). Thành ra vấn đề không ở chỗ biết khéo xoay sở hay biết chớp đúng thời cơ, mà là sự khôn ngoan thực sự trong lối sống, một sự nhận xét đúng về thực tế mình gặp và kèm theo ý chí cương quyết để linh động sau đó.

Trong khi đó năm cô khờ, họ bối rối vì đèn họ tắt, họ phải trả giá đắt cho thói cẩu thả của họ và vì quá cấp bách họ tìm cách nhờ vả “ xin cho chúng em chút dầu của các chị…”. Đến lúc cấp bách không ai có dư để có thể giúp người khác, vì mọi người đã đến đích không thể lấy của người này bù cho người kia được, năm cô khờ không tin tưởng và không chờ đợi nhiệt tình nên mới không chuẩn bị. Sự chuẩn bị hay tỉnh thức ở đây không có ý nói tới thể xác. Vì năm cô khôn cũng thiếp đi và họ có thể yên tâm mà ngủ, bởi họ đã cẩn thận chuẩn bị chu đáo, là lo sẵn dầu đèn để đốt. Ngược lại các cô dại dù có tỉnh thức thì chàng rể đến họ vẫn ở tình trạng không tỉnh thức, vì họ không sẵn sàng, không đủ điều kiện.

Năm cô khờ và năm cô khôn đều nằm trong thành phần đám rước, đi đón chàng rể, và là biểu tượng cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Như thế vào Nước Thiên Chúa không chỉ gia nhập Hội Thánh là đủ mà phải có Đức Ai là dầu đèn và sự sẵn sàng. Ngày phán xét Thiên Chúa chỉ xét đến Đức Ai và thái độ chuẩn bị. Phải biết chuẩn bị cho những cái không ngờ đến để mà đối phó kịp thời, phải liệu lấy cho mình vì không ai có thể làm thế cho ta hay cho ta vay mượn được, không sẵn sàng cửa đóng lại là vậy.

Sẵn sàng là thái độ khôn ngoan, mà khôn ngoan là sống theo ý Chúa, là thi hành điều Chúa Giêsu dạy trong Hiến Chương Nước Trời, luôn luôn sống theo điều Chúa Giêsu dạy đó chính là sẵn sàng và đó là tỉnh thức.

Lạy Chúa, chúng con là những người đang chờ đợi Chúa đến, xin cho chúng con biết kiên trì trong tin yêu, dù có phải gặp thử thách vẫn luôn khôn ngoan dự phòng đèn Đức Tin và dầu Đức Ai để được cùng hôn phu Kitô vào tiệc cưới đời đời.

KHI CÁNH CỬA PHÒNG TIỆC ĐÓNG LẠI
Mt 25, 1 – 13

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Chuẩn bị kết thúc năm phụng vụ, Mẹ giáo hội mời gọi con cái mình dùng thời gian này để suy chiêm cách đặc biệt về thời Cánh chung- thời Con Người ngự đến, cùng với những khách mời đã chuẩn bị sẵn sàng, dự tiệc cưới nước trời. Dụ ngôn “Mười trinh nữ” được thánh sử Mátthêu đặt trong bối cảnh này như mời gọi, thúc giục chúng ta phản tỉnh, cân nhắc hầu chuẩn bị những gì thiết yếu nhất làm hành trang bước vào bàn tiệc Thiên quốc khi ngày đó bất chợt xảy đến.

Ở thời đại chúng ta, sẽ khó hiểu vô cùng làm sao đám cưới lại diễn ra vào ban đêm, nhưng với miền Palestine xưa, đây là một phong tục không thể làm khác được. Theo đó, tiệc cưới sẽ chính thức diễn ra vào ban đêm, giờ giấc của tiệc cưới khó có thể biết trước được, bởi phụ thuộc vào sự “mặc cả” sính lễ giữa nhà trai với nhà gái. Chúng ta biết là trong quá trình mặc cả sính lễ, người ta quan niệm rằng mặc cả càng lâu thì càng cho thấy đàng gái vô cùng tiếc “cô gái rượu” của mình và nhờ đó, cô dâu càng tăng thêm giá trị và chàng rể cũng vì thế mà nở mặt nở mày với bà con chúng bạn. Thế nhưng nói như thế không có nghĩa là ban ngày ai nấy đều tranh thủ “ngủ lấy sức tối ăn”, mà ban ngày gia chủ cũng tổ chức vui chơi sinh hoạt rất sinh động để chờ chàng rể đến. Chính vì không biết giờ nào chàng rể đến, nên cần phải có người canh chừng, loan tin, tiệc cưới chỉ được bắt đầu khi chàng rể và đoàn tuỳ tùng đến mà thôi.

Muời cô trinh nữ được mời với mười cây đèn trên tay cháy sáng. Đèn trên tay các cô vẫn cháy sáng bởi các cô sợ khi chàng rể đến sẽ không kịp chỗi dậy để thắp. Cả mười cô đều ngủ bên cây đèn cháy sáng của mình, hy vọng được vinh dự đón chàng rể khi có loan báo. Tin chàng rể đến được loan đi, cả mười cô vui mừng chỗi dậy sửa soạn dầu đèn. Công việc của các cô là coi lại đèn dầu thế nào, gạt bớt tàn, lên tim đèn cho cao để ngọn lửa được sáng hơn hầu nghênh đón chàng rể. Đến công đoạn này, trong số đó có năm cô bổng dưng đèn hết sạch dầu, đèn của các cô giờ đây chỉ còn một đám khói mù mịt. Các cô quýnh quáng cầu cứu. Năm cô kia chẳng giúp được gì, đành chạy đi thúc giục chủ “cây xăng” thôi… Cửa phòng tiệc cưới đóng lại cách lạnh lùng!

Dụ ngôn kết thúc trong tiếng đập cửa í ới của năm cô trinh nữ dại khờ và tiếng quở trách của chàng rể : “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô”. Các cô bị quở trách quả là đúng lý. Bởi các cô là những người đã được gia chủ mời gọi, được tuyển chọn và nhất là, các cô đã đồng ý làm công việc chuẩn bị nghênh đón chàng rể, thế mà khi đến thời đến buổi, các cô lại không chuẩn bị chu đáo. Xem ra cái dại khờ của các cô không nằm ở chỗ các cô không xinh đẹp, không khôn ngoan, không lanh lợi mà nằm ở chỗ các cô đã không thiết tha với công việc được tuyển chọn của mình. Xét cho cùng thì năm cô được xem là khôn ngoan kia cũng đâu có hơn gì năm cô khờ dại. Bằng chứng là khi chàng rể vì mặc cả sính lễ quá lâu, chưa đến được, cả mười cô đếu lăn ra ngủ cả đấy thôi. Thế nhưng, các cô lại là những con người có trách nhiệm, biết chuẩn bị, biết phòng xa. Đèn vẫn cháy sáng, nhưng các cô đã chuẩn bị kỹ càng để không bao giờ hết dầu hầu ngọn đèn của các cô vẫn luôn luôn cháy sáng bất cứ lúc nào.

Tính thời sự của dụ ngôn vẫn còn đó dù nó ra đời cách đây hơn hai ngàn năm. Theo đó, được xem là khôn ngoan hay dại khờ không nằm ở việc chúng ta được Thiên Chúa mời gọi hay được tuyển chọn mà là ở chỗ chúng ta có thiết tha với lời mời gọi và tuyển chọn của Thiên Chúa hay không. Đó cũng không phải là việc chúng ta đã được rửa tội, được gia nhập vào Giáo hội thì đương nhiên chúng ta có sẵn giấy thông hành, có bảo bối vào cửa trời mà ở chỗ chúng ta có thao thức với những giá trị Tin mừng và áp dụng những giá trị đó vào trong đời sống của chúng ta hay không. Đó cũng không hẳn chúng ta là những “đại ân nhân” của giáo hội, của hội dòng, của xã hội thì đương nhiên cửa trời sẽ rộng mở cho chúng ta trong ngày sau hết mà ở chỗ chúng ta có duy trì và làm cho ngọn đèn đó luôn tràn đầy dầu bác ái hay không. Hãy nhớ rằng tính cấp bách của thời sau hết không chờ đợi chúng ta. Một khi lễ cưới đã sẵn sàng, giờ tiệc cưới đã đến, lúc chàng rể bước vào phòng tiệc, cửa phòng tiệc đóng lại cũng chính là lúc số phận của kẻ khôn người dại được an bài rõ ràng. Hãy tưởng tượng xem điều gì sẽ xảy đến khi cánh cửa phòng tiệc đóng lại? Khi đó, bên trong là hoan hỉ, là chúc tụng và tạ ơn, còn bên ngoài là khóc lóc than van và đớn đau. Vì thế, cần phải sẵn sàng, đừng thờ ơ trước lời cảnh báo này.

Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta duyệt xét lại đời sống đạo của mình. Đây là lúc không phải ngồi đó để tự hào vì mình là người có đạo, là ông này bà kia trong giáo hội, đã cống hiến tài năng sức lực và của cải cho giáo hội, cho xã hội,… mà là lúc hãy chuẩn bị cho mình có được ngọn đèn luôn luôn cháy sáng trong ngày Quang lâm của Con Thiên Chúa.

KẺ KHỜ DẠI ĐÁNH MẤT NƯỚC TRỜI
Mt 25, 1 – 13
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên lâm bệnh nặng và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
- Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
- Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
- Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
- Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Đó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị về đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.

Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa – yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.

Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen

NGƯỜI KHÔN NGƯỜI DẠI
Mt 25, 1 – 13

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn luôn cảm thấy lúc nào cũng có những điều mới lạ, những dụ ngôn, những ví dụ, những câu chuyện Chúa đưa ra để dạy dỗ, để răn đời luôn hấp dẫn, luôn mới mẻ dù rằng có những đọan Tin Mừng chúng ta đã đọc rất nhiều lần. Dụ ngôn 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể là một ví dụ điển hình. Dụ ngôn này có người đã thuộc nằm lòng, có người đã nghe nhiều lần, nhưng hầu như lúc nào đoạn Tin Mừng này cũng làm con người say mê vì sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, dạy dỗ nhân loại, dạy dỗ con người phải tỉnh thức để đón nhận nước trời, đón nhận Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này là một dụ ngôn bởi vì chẳng có một đám cưới nào ở trần gian này lại tổ chức cái kiểu đó. Mà cũng chẳng có cuộc rước dâu nào lại như thế.Chàng rể nếu có đến trễ. Các cô dâu cũng chẳng thể nào ngủ được vì quần áo cưới, đầu tóc, trang điểm. Tất cả những hình thức bề ngoài như quần áo, đầu tóc, sự trang điểm luôn phải làm các cô dâu phải tỉnh thức. Dụ ngôn này là một lời cảnh tỉnh nhân loại, cảnh tỉnh mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Trong dụ ngôn này, chàng rể cư xử một cách khác thường không như các chàng rể bình thường. Chúa Giêsu muốn nói đến một chàng rể đặc biệt và tiệc cưới, đám cưới cũng rất đặc biệt. Tiệc cưới này đòi mọi người phải tuân thủ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường nơi những đám cưới chúng ta thường tham dự. Ở đây 10 cô trinh nữ phù dâu biểu tượng cho toàn thể nhân loại, toàn thể con người trên thế gian này được Thiên Chúa yêu thương, đón mời vào dự tiệc cưới nước trời. Dầu và đèn là những phương tiện cần có để tham dự tiệc cưới. Mười cô phù dâu lại có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh của nhân loại, của con người. Trong nhân loại hay giữa con người, có người khôn, có người dại. Đó là cái trớ trêu của con người và là cái dí dỏm của đoạn Tin Mừng này. Khôn hay dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng hay không sẵn sàng tỉnh thức. Tất cả 10 trinh nữ phù dâu đều ngủ chứ chẳng có cô nào thức. Đó là cái nghịch lý của dụ ngôn. Tuy nhiên, cái khôn và cái dại được đo lường dựa trên tiêu chuẩn các cô có cẩn thận và sẵn sàng hay không ? Năm trinh nữ khôn ngoan đã ngủ vùi nhưng họ khôn trong tư thế, trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô khờ dại đã ngủ trong tư thế thờ ơ, chểnh mảng. Nên khi nghe tin chàng rể đến thì đã quá muộn rồi. Việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ giờ của Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến nhưng Ngài đến cách bất ngờ, đột xuất, nên ai khôn sẽ sẵn sàng.

Chúa Giêsu đã luôn cảnh tỉnh mọi người :” Hãy tỉnh thức và sẵn sàng “. Tỉnh thức để mau mắn nghe bước chân Chúa đến và sẵn sàng đón Chúa để cùng vào nước trời với Ngài. Bởi vì, muốn đón Chúa, chúng ta phải có đèn, đèn muốn có tác dụng, muốn cháy sáng phải có dầu, mà dầu đốt mãi, đốt liên tục thì cũng sẽ hết, giờ Chúa đến lúc nào chúng ta cũng chẳng rõ, cũng chẳng hay biết được.Bởi vậy, muốn chắc chắn, chúng ta phải khôn ngoan dự trữ dầu mà càng dự trữ dầu càng nhiều càng tốt. Dầu ở đây tượng trưng cho đức tin, cho đời sống thánh thiện, cho đời sống công chính, bác ái, và đời sống lương thiện, chân chính và thiện hảo của chúng ta. Đời sống của mỗi người luôn là một cái gì đó xem ra rất mỏng manh, cuộc đời mau tàn, mau chấm dứt. Nhưng chúng ta nào thấy trước hoặc biết được lúc nào cuộc đời của chúng ta sẽ chấm dứt, sẽ qua đi. Tốt nhất là chúng ta phải khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là chúng ta phải sống theo ý Chúa, sống đời sống của Chúa như thánh Phaolô viết :” Đối với sống là Đức Kitô “ “ Tôi sống không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Tôi đã sống và loan báo Tin Mừng cho người Dân tộc Kơho từ nhiều năm nay. Điều anh chị em Dân tộc gây ấn tượng cho tôi nhiều nhất đó là sự hồn nhiên, phó thác của họ cho Thiên Chúa hằng ngày bởi vì họ không bôn chen, không tham lam và không dự trữ của cải như những người khôn ở thế gian thường làm. Tuy nhiên, sự hồn nhiên, trong sáng của họ là dầu họ đang dự trữ tràn trề để sẵn sàng đón Chúa và lãnh nhận nước trời.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng để đón Chúa đến bất cứ lúc nào. Amen.

TỈNH THỨC CHỜ ĐỢI
Mt 25, 1 – 13

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đời con người là một cuộc chờ đợi mòn mỏi và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu, cũng bao hàm những mong ước, những đợi chờ. Đợi chờ là một cuộc trắc nghiệm về sự bền bỉ, một thử nghiệm về tình yêu. Bởi vì có yêu thương, có tha thiết mới mong chờ, đợi trông. Chờ đợi người mình mến chuộng, yêu quí, chờ mong người mình thực sự yêu thương hay chờ mong một điều gì tốt, một nguyện ước nào đó, con người mới đem hết lòng đợi chờ. Với ý nghĩa đó, đợi chờ là một cuộc chờ mong sâu xa, tha thiết thực sự.

Thánh Vịnh 87,3 viết: ” Lạy Chúa, xin cho lời con cầu nguyện vọng tới Ngài, xin lắng nghe tiếng lòng thổn thức “. Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến cho chúng ta hiểu ý nghĩa cao sâu của việc chờ đợi. Năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào tiệc cưới. Thực sự mà nói, năm cô trinh nữ khôn ngoan chẳng bao giờ hối tiếc những gì đã qua, chẳng lo âu những điều sẽ tới, nhưng các cô luôn vững tin, luôn gắn chặt với thực tại của gian trần này để rồi họ có sẵn dầu dự trữ và thắp sáng đèn cùng chàng rể sánh bước, hân hoan, vui mừng vào dự tiệc cưới. Các cô khờ dại theo Tin Mừng thánh Matthêu sáng nay, vẫn là những cô chỉ biết bám víu vào quá khứ, những cô không biết tiên liệu, không biết nắm bắt thời gian. Nên, khi chàng rể tới, các cô đã quá muộn để mua dầu vì cửa phòng tiệc đã đóng kỹ.

Chúa Giêsu là dung mạo của chàng rể. Tiệc cưới là Nước Trời, Nước Thiên Chúa.

Chàng rể ở đây luôn đến bất ngờ vào ngày, vào giờ con người không hề biết trước.Cuộc đời trần thế là tạm bợ, mau qua. Không ai biết trước giờ chết ngoại trừ Con Người: Đức Giêsu Kitô. Chúa Kitô sẽ đến phán xét mọi người vào ngày tận thế, vào ngày tận cùng của thế giới, của trần gian này. Giờ đó, nào ai đoán trước, nào ai biết trước được.

Người Kitô hữu luôn phải sẵn sàng, luôn phải sống giây phút hiện tại với tất cả tình yêu, với tất cả lòng mến của mình và như thế, họ luôn tỉnh thức để đón chờ chàng rể đến để cùng vào dự tiệc Nước Trời, dự tiệc Nước Thiên Chúa. Môn đệ của Chúa là người phải luôn sẵn sàng chờ đợi Chúa, họ như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn, lại mang dầu theo, chứ không khờ dại như năm cô trinh nữ khờ khạo mang đèn nhưng không mang dầu theo dự trữ. Các cô khờ dại sẽ mãi mãi ở ngoài, trầm luôn suốt cuộc đời của mình.

Các cô trinh nữ khôn ngoan, cầm dầu cháy sáng trong tay. Ánh sáng là đức tin chúng ta đã lãnh nhận ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin sống động là đức tin có việc làm. Người Kitô hữu có đức tin cháy sáng là người Kitô hữu luôn hướng về Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống của mình. Cuộc đời của họ luôn tỉnh thức đợi chờ. Theo Chúa là phải sống đức tin của chính mình, phải sống sự khôn ngoan của Thiên Chúa bởi vì có sống sự khôn ngoan của Chúa, người Kitô hữu mới vượt qua mọi thử thách đời sống của mình để tiến tới sự sông vĩnh cửu, chứ không bị u mê, lầm lạc dại khờ chạy bám theo những cám dỗ của trần gian, chạy theo những thói hư nết xấu làm lu mờ đức tin.

Đèn dầu cháy sáng. Dầu tình yêu, dầu bác ái. Thánh Gioan viết một câu rất chi lý: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu “ ( 1 Ga 4, 8 ). Tin yêu, sẵn sàng, tỉnh thức chờ đợi là luôn phó thác nơi Đấng, Mục Tử nhân lành: ” Chúa là mục tử chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi. Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi “ ( Tv 22, 1-2 ). Tình yêu của Đấng Mục Tử nhân hậu đang hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta luôn được nuôi dưỡng bằng chính thịt máu Chúa để có sức mà đi trọn cuộc lữ hành trần thế mà tiến vào Nước Trời.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin đẩy xa những gì cản bước tiến chúng con, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật XXXII thường niên, năm A ).

NIỀM HY VỌNG
Mt 25, 1 – 13

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Sáng hôm nay, tôi đi thăm một cụ bà tuổi đã ngoài 90 tuổi, tên bà là Margaret Grossenbacher. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, bà thường xin xưng tội. Xong xuôi mọi nghi thức, cụ bà mời tôi ngồi và kể lể vài tâm sự. Bà sống một cuộc đời khá dài nhưng cũng hơi đơn côi. Bà không lập gia đình, nên không có chồng con chi cả. Ông bà nội ngoại chết trước khi bà sinh ra. Cha mẹ theo đạo Tin Lành và đã chết. Người thân còn lại là gia đình của người chị. Họ chỉ có một đứa con nuôi và vài đứa cháu. Bà trở lại đạo Công Giáo khi còn trẻ và cả đời làm cô giáo dạy học. Tuy 91 tuổi, bà còn rất tỉnh táo. Tính đếm tiền bạc để dâng cúng đều đặn cho nhà thờ và việc bác ái. Bà không sợ chết và luôn phấn chấn hy vọng vào sự sống ngày sau. Sáng nay bà nói: Đêm qua bà nằm mơ là sau khi chết, chẳng có gì ở thế giới bên kia. Bà hỏi tôi: Không biết giấc mơ có thật hay không? Tôi chỉ biết trả lời: Hãy tin vào Chúa Kitô phục sinh là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc.

Niềm hy vọng vào sự sống đời sau là niềm hy vọng tuyệt đối. Đánh đổi bằng nhiều hy sinh của cuộc đời trên trần thế để mong đạt vinh quang sự sống lại. Trong sách Macabêô quyển thứ hai kể câu truyện bảy anh em bị bắt cùng với mẹ mình. Vua ép họ ăn thịt heo, lỗi phạm lề luật Thiên Chúa đã cấm. Từ anh lớn đến người em nhỏ đều khẳng khái trung kiên một lòng thà chết không hề lỗi luật. Động lực lớn nhất trong tâm trí là tin tưởng vào phần thưởng sự sống đời đời: Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mac 7, 9). Niềm tin tưởng tuyệt đối đánh đổi bằng cả mạng sống mình.

Chúng ta biết rằng người đời có thể dùng sức mạnh để hủy diệt mạng sống của nhau. Tổ chức xã hội con người có thể cầm tù, đánh đòn, làm khổ thân xác và khủng bố tinh thần nhưng họ không thể tước đoạt ý chí và sự tự do lương tâm của con người. Không ai có thể phủ nhận niềm tin trong tâm hồn người khác. Sức mạnh của niềm tin vững vàng nơi bảy anh em đã vượt trên sự đau khổ và sự chết: Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu” (2Mac 7, 14). Cả bảy anh em can đảm đối diện với cái chết. Chết để được sống. Vui hưởng sự sống đời đời.

Câu truyện cưới vợ gả chồng của bảy người anh em trong bài phúc âm bàn về sự sống lại ngày sau. Các thầy Sa-đốc dựa vào lý luận của cuộc sống vợ chồng đời này để kết luận sự việc đời sau. Các thầy từ chối tin vào sự sống lại ngày sau. Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng:“Con cái đời này cưới vợ gả chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Không có một ai đang sống trên đời có kinh nghiệm hay sự hiểu biết gì về đời sau. Đây là vấn đề của niềm tin. Thiên Chúa đã từng bước mạc khải cho con người về mầu nhiệm sự sống và sự chết qua Chúa Giêsu Kitô. Đời sống con người có mục đích và có cùng đích. Sinh ra là khởi đầu. Sống là cuộc lữ hành. Chết là điểm đến.

Mỗi người có một cuộc đời dương thế. Khi đã kết thúc cuộc đời dương thế là bước sang một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về điểm đến: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20, 36). Những người đã chết, thân xác bị hủy diệt và linh hồn tiếp tục hiện hữu. Chúa Giêsu khai mở một chân lý vĩnh cửu là linh hồn hiện hữu ngang hàng với các thiên thần. Thiên thần hiện hữu nhưng vô hình. Đây là thế giới của những kẻ đã mãn cuộc đời dương thế. Thiên Chúa không sáng tạo vũ trụ con người để bị hủy diệt trở về hư không. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Chúa Giêsu xác tín về sự sống lại ngày sau: Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (Lc 20, 38).

Người tôi tớ Chúa, Đức cố Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn văn Thuận, là tấm gương sáng ngời cho những ai bị lung lạc niềm tin và sự hy vọng. Trong thời gian bị cải tạo tù đầy, niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh đã chiếm trọn trái tim của ngài. Dù trong tù, mỗi ngày ngài dâng thánh lễ tạ ơn. Ngài nêu gương hiền hòa và khiêm nhường. Không ai là kẻ thù trong tim ngài. Ngài dạy cho các anh cai tù học biết ngọai ngữ Anh và Pháp, dạy hát thánh ca bằng tiếng Latinh. Chính các cán bộ nhân viên cai tù hát kinh ‘Veni Creator’ của đạo Công Giáo. Người bị tù đã cải tạo những người cai tù bằng đức tin và niềm hy vọng. Nơi nhà giam, Đức Cố Hồng Y đã sống trong hy vọng và đã viết cuốn ‘Con Đường Hy Vọng’. Hy vọng là lối bước vào tương lai. Niềm hy vọng sẽ làm cho đời sống vui tươi, phấn khởi và an bình.

Khi tôi đang viết bài suy niệm này, có phôn reo. Người thơ ký báo là có hai người muốn gặp việc khẩn cấp. Tôi xuống văn phòng gặp một người đàn bà lớn tuổi và một ông trẻ hơn. Cả hai chị em đều là người công giáo. Bà bắt đầu khóc lóc và kể lể mọi khó khăn đang gặp phải. Bà đang đối diện với quá nhiều khổ đau chồng chất. Một người em và mẹ mới qua đời tuần qua. Người con gái mới bỏ nhà ra đi sống với bạn gái (Lesbian). Một đời chắt chiu tiền bạc của cải, giờ đây tất cả dũ cánh ra đi. Bà còn phải mang căn bệnh hiểm nghèo, lục phủ ngũ tạng đều nhiễm bệnh. Bà sợ phải mổ xẻ và sợ chết. Ngồi bên cạnh bà là người em 51 tuổi mới vừa trở về sau 31 năm ở trại tù giam. Bà nói rằng chú em mãn ở trong khám tù, nay lại vào khám lo. Bà đang mất niềm hy vọng. Không biết bám víu vào đâu. Sầu khổ, khóc lóc và sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Bà đang tự đóng khung cuộc đời. Của cải niềm vui trần đời không thể cứu vãn. Một lời khuyên, chỉ có một lối thoát duy nhất là đặt niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh.

Thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô nói đến niềm vui và niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Mọi thú vui của thế gian rồi cũng sẽ trôi qua, chỉ có ân sủng của Chúa là niềm an ủi bất diệt: Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp (2Thes 2, 16). Chúa Kitô đã phục sinh từ cõi chết, Ngài là trưởng tử của những kẻ yên giấc. Ngài đã sống lại và đã hiện ra nhiều lần với nhiều người. Người vẫn đang sống. Đây là niềm hy vọng tuyệt đối cho tâm hồn. Chúng ta tin tưởng vào Chúa Kitô. Chúng ta có Lời để sống, có đường để dõi theo, có cùng đích để hướng tới và có nhà để về. Chúa Giêsu phán rằng nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Chúa sẽ trở lại đón chúng ta về.

Muốn hưởng sự sống đời đời, chúng ta phải dõi bước theo Chúa Kitô và cùng chịu đựng với Ngài. Con đường duy nhất dẫn tới sự sống đời đời là con đường thập giá của Đức Kitô: Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô (2Thess 3, 5). Theo Chúa, vào qua cửa hẹp đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ và chịu thiệt thòi vì danh Chúa. Với tha nhân, thực hành bác ái yêu thương. Cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp ngày nay để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Mỗi ngày nối kết bậc thang đi lên bằng những việc tốt và việc thiện nho nhỏ. Con đường lên thiên đàng là thiên đàng rồi.

Lạy Chúa, Chúa là sự sống lại và là sự sống. Chúa là Alpha và Ômega, là đầu và là cùng đích. Chúng con đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Xin Chúa đón nhận chúng con vào Nước Chúa. Chúng con sẽ được ngang hàng với các thiên thần. Hạnh phúc ngàn đời bên Chúa.

SẲN SÀNG
Mt 25, 1 – 13
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn luôn cảm thấy lúc nào cũng có những điều mới lạ, những dụ ngôn, những ví dụ, những câu chuyện Chúa đưa ra để dạy dỗ, để răn đời luôn hấp dẫn, luôn mới mẻ dù rằng có những đọan Tin Mừng chúng ta đã đọc rất nhiều lần.Chúa Giêsu luôn dùng những gì thực tế nhất, ấn tượng và đánh động nhất để dạy con người, để giới thiệu Nước Trời. Dụ ngôn 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể là một ví dụ điển hình. Dụ ngôn này có người đã thuộc nằm lòng, có người đã nghe nhiều lần, nhưng hầu như lúc nào đoạn Tin Mừng này cũng làm con người say mê vì sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, dạy dỗ nhân loại, dạy dỗ con người phải tỉnh thức để đón nhận nước trời, đón nhận Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này là một dụ ngôn bởi vì chẳng có một đám cưới nào ở trần gian này lại tổ chức cái kiểu đó. Mà cũng chẳng có cuộc rước dâu nào lại như thế.Chàng rể nếu có đến trễ. Các cô dâu cũng chẳng thể nào ngủ được vì quần áo cưới, đầu tóc, trang điểm. Tất cả những hình thức bề ngoài như quần áo, đầu tóc, sự trang điểm luôn phải làm các cô dâu phải tỉnh thức. Dụ ngôn này là một lời cảnh tỉnh nhân loại, cảnh tỉnh mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Trong dụ ngôn này, chàng rể cư xử một cách khác thường không như các chàng rể bình thường. Chúa Giêsu muốn nói đến một chàng rể đặc biệt và tiệc cưới, đám cưới cũng rất đặc biệt. Tiệc cưới này đòi mọi người phải tuân thủ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường nơi những đám cưới chúng ta thường tham dự. Ở đây 10 cô trinh nữ phù dâu biểu tượng cho toàn thể nhân loại, toàn thể con người trên thế gian này được Thiên Chúa yêu thương, đón mời vào dự tiệc cưới nước trời. Dầu và đèn là những phương tiện cần có để tham dự tiệc cưới.

Mười cô phù dâu lại có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh của nhân loại, của con người. Trong nhân loại hay giữa con người, có người khôn, có người dại. Đó là cái trớ trêu của con người và là cái dí dỏm của đoạn Tin Mừng này. Khôn hay dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng hay không sẵn sàng tỉnh thức. Tất cả 10 trinh nữ phù dâu đều ngủ chứ chẳng có cô nào thức. Đó là cái nghịch lý của dụ ngôn. Tuy nhiên, cái khôn và cái dại được đo lường dựa trên tiêu chuẩn các cô có cẩn thận và sẵn sàng hay không ? Năm trinh nữ khôn ngoan đã ngủ vùi nhưng họ khôn trong tư thế, trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô khờ dại đã ngủ trong tư thế thờ ơ, chểnh mảng. Nên khi nghe tin chàng rể đến thì đã quá muộn rồi. Việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ giờ của Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến nhưng Ngài đến cách bất ngờ, đột xuất, nên ai khôn sẽ sẵn sàng. Dầu cũng có nghĩa là dầu bác ái, dầu yêu thương. Chỉ có tình yêu mới thắp sáng được ngọn đèn đức tin của người tín hữu.

Chúa Giêsu đã luôn cảnh tỉnh mọi người :” Hãy tỉnh thức và sẵn sàng “. Tỉnh thức để mau mắn nghe bước chân Chúa đến và sẵn sàng đón Chúa để cùng vào nước trời với Ngài. Bởi vì, muốn đón Chúa, chúng ta phải có đèn, đèn muốn có tác dụng, muốn cháy sáng phải có dầu, mà dầu đốt mãi, đốt liên tục thì cũng sẽ hết, giờ Chúa đến lúc nào chúng ta cũng chẳng rõ, cũng chẳng hay biết được.Bởi vậy, muốn chắc chắn, chúng ta phải khôn ngoan dự trữ dầu mà càng dự trữ dầu càng nhiều càng tốt. Dầu ở đây tượng trưng cho đức tin, cho đời sống thánh thiện, cho đời sống công chính, bác ái, và đời sống lương thiện, chân chính và thiện hảo của chúng ta. Đời sống của mỗi người luôn là một cái gì đó xem ra rất mỏng manh, cuộc đời mau tàn, mau chấm dứt. Nhưng chúng ta nào thấy trước hoặc biết được lúc nào cuộc đời của chúng ta sẽ chấm dứt, sẽ qua đi. Tốt nhất là chúng ta phải khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là chúng ta phải sống theo ý Chúa, sống đời sống của Chúa như thánh Phaolô viết :” Đối với sống là Đức Kitô “ “ Tôi sống không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Tôi đã sống và loan báo Tin Mừng cho người Dân tộc Kơho từ nhiều năm nay. Điều anh chị em Dân tộc gây ấn tượng cho tôi nhiều nhất đó là sự hồn nhiên, phó thác của họ cho Thiên Chúa hằng ngày bởi vì họ không bôn chen, không tham lam và không dự trữ của cải như những người khôn ở thế gian thường làm. Tuy nhiên, sự hồn nhiên, trong sáng của họ là dầu họ đang dự trữ tràn trề để sẵn sàng đón Chúa và lãnh nhận nước trời.

Xin mượn lời của Nicolas Tarralle để kết thúc bài chia sẻ này :” Trong ngày lễ cung hiến Đền Thờ Latêranô, Tin mừng cho chúng ta nghe một lệnh cứng rắn của Đức Giêsu :” Đừng biến nhà Cha tôi…”.Điều nói về Đền Thờ Giêrusalem cũng đúng cho nhà thờ chính tòa giáo phận Roma, cũng như cho mỗi ngôi nhà thờ của chúng ta.Nhưng khi đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu chủ yếu báo tin về một ngôi đền mới của Thiên Chúa : không chỉ làm bằng đá mà bằng xương bằng thịt; không chỉ giới hạn trong một khuôn viên thánh thiêng, mà được nới rộng theo chiều khích của thế giới.Ngôi Đền mới này là chính thân thể người…Cùng với Đức Kitô, chúng ta vượt qua các không gian phụng vụ chúng ta cử hành để đi vào đức tin. Cuộc vượt qua này được thể hiện ở những địa điểm cụ thể, như ngôi mộ trống nơi ông Gioan nhìn thấy tấm khăn liệm xếp lại :” Ông đã thấy và đã tin…” Các ngôi nhà thờ chúng ta là những địa điểm biệt đãi, nơi chúng ta nhận ra những dấu chỉ tương ứng với lời kinh Thánh, để tia sáng đức tin lóe lên: “ Vâng, lạy Chúa, chúng con tin !”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng để đón Chúa đến bất cứ lúc nào và Xin cho chúng con trở nên Đền Thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Amen.

Nguồn: vietcatholic.org

 

956    11-11-2014 15:31:32