Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Chúa Nhật XXVI Thường Niên A năm 2014

  1. Người Vâng Lời Thiên Chúa 
  2. Vâng Lời và Hành Động 
  3. Làm Theo Ý Chúa 
  4. Vâng Phục Thiên Chúa
  5. Biết Nhìn Lại Mình 
  6. Đức Tin và Hành Động
  7. Nói - Làm
  8. Con Người Được Tự Do Vì Phục Vụ Thiên Chúa
  9. Gái Điếm Vui Vẻ Vào Nhà Cha
  10. Dụ Ngôn Hai Người Con
  11. Thức Tỉnh Trở Về
  12. Sự Thống Hối Ăn Năn
  13. Ai Ngoan Nhất
  14. Người Vâng Lời Đích Thực
  15. Ngôn Hành Như Nhất
  16. Xin Được Mãi Làm  “Người Con Thứ Nhất”!
  17. Hãy Làm Ngay Hôm Nay
  18. Rất Cần Cho Một Lần Hoán Cải
  19. Lời Nói Phải Đi Đôi Với Việc Làm
  20. Nói và Làm
  21. Hành Động Tốt Thắng Câu Nói Hay
  22. Hối Lỗi

NGƯỜI VÂNG LỜI THIÊN CHÚA 
Mt 21, 28 - 32

Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage ; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an… Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Ta thử nhìn tới ba hạng người đã đáp lại lời Chúa gọi vào làm vuờn cho TC:

* Trả lời không với TC, nhưng sau đó lại đã đi làm: Thánh Phaolô chính là hình ảnh và là một tấm gương sáng về điễm này. Khi chưa biết Chúa và chưa tin vào Chúa, bằng mọi cách, Phaolô đã chống lại Chúa và những ai tin nơi Chúa; nhưng trên đuờng đi Damas, Phaolô đã gặp Chúa… Phaolô đã ăn năn và được biến đổi tận gốc rễ. Từ nay cho đến chết, Phaolô luôn luôn thưa vâng với TC…Câu chuyện của thánh Augustinô mà ta vừa nghe ở trên, cũng là tấm gương về hạng người này…

* “Thưa vâng” với TC, nhưng sau đó lại không đi:

Các luật sĩ, pharisêu và các kỳ lão Do thái, họ có thái độ giống như người con thứ hai. Họ tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ nghe lời Gioan Tẩy giả kêu gọi ăn năn sám hối. Họ thấy người thu thuế, gái điếm, tội lỗi ăn năn hối cải; nhưng họ lại tự phụ vì cho mình công chính hơn mấy hạng nguời trên, nên không cần ăn năn sám hối; dù bề ngoài họ rất tôn trọng lời giảng của Gioan, tôn kính Thiên Chúa…

* Chúa Giêsu luôn lúc nào cũng “thưa vâng” với Thiên Chúa: Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế, từ khi sinh ra cho đến cuối đời, trong lời nói cũng như trong hành động, lúc nào cũng thưa vâng với Chúa Cha. Người chính là khuôn mẫu hoàn hảo của nhân loại,vì đã luôn lúc nào cũng dâng hiến tất cả vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Vì vậy thánh Phaolô đã nói: (Phil 2, 6-8): Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập giá…

b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì ?

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa xem ra chỉ trích gay gắt, trước hết là nhóm các thượng tế, kỳ lão, pharisêu; họ tuởng mình là công chính “bằng việc nói mà không làm”. Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn nói thẳng với những ai, nói một đàng mà làm một nẻo, nếu không muốn nói là trái ngược… Còn trong đạo thì sao? Thực ra con số người thực hiện Lời Chúa còn khá khiêm tốn. Nhiều lần Chúa muốn nói thẳng với ta: “không phải cứ thưa lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu rổi, mà chỉ những ai thi hành Ý Chúa Cha mà thôi…” Vậy người tuân phục Thiên Chúa chính là người thi hành chứ không nói suông. Ở đây Chúa nhấn mạnh việc làm, không phải là lời nói…

Câu chuyện: Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt…Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã”. Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh. Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)…Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi tất cả mọi người tham gia vào công việc của Chúa muốn thực hiện nơi trần gian (gọi là làm việc trong vườn nho của Chúa), là đem ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc và sự sống đến cho mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành chứ không chỉ nói suông mới là người tuân phục Thiên Chúa và thuộc về Chúa, là con cái Chúa. Ta là hạng người nào đây? Ta có tích cực cộng tác với Chúa, với Hội thánh để lo làm việc trong vườn nho Chúa, hay chỉ nói suông mà thôi?

VÂNG LỜI VÀ HÀNH ĐỘNG 
Mt 21, 28 – 32

Chúng ta luôn thấy trong cuộc sống có sự mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống: trong gia đình, trong lớp học, trong nhà máy, trong chính quyền quốc gia và địa phương. Sự đấu tranh đó có quá nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể nhắc đến được tất cả cũng như tìm cách giải quyết. Tuy nhiên chúng ta có thể đề ra một vài gợi ý. 
Phần nhiều tùy thuộc ở cách thế, thời gian và nơi chốn mà lệnh truyền được ban ra. Cung giọng, vẻ mặt, cách xử sự góp một phần đáng kể có lẽ người cha trong câu chuyện Chúa Giêsu kể đã ra lệnh với cung giọng cộc cằn độc tài. Có lẽ không bao giờ ông tâm sự và chia sẻ với các con ông trong khi có những quyết định. Điều thực tế này rất thường có ngay trong đời sống giáo xứ, trong đời sống Giáo hội nói chung. Quyền bính và trách nhiệm được chia sẻ nhiều hơn thì sự đấu tranh phải giảm đi. 
Dĩ nhiên, trên hết chúng ta coi như người ra lệnh hay những chỉ dẫn, thì có trí thông minh, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm hơn.Trong câu truyện Chúa Giêsu kể, người con thứ nhất nói là anh ta đi làm, nhưng không đi làm. Người con thứ hai nói không đi làm và rồi lại đi làm. 
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: "Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của Cha?". Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: "đứa thứ nhất". Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ. 
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử Mt muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải Ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết lải nhãi: "Lạy Chúa, lạy Chúa" nhưng không bao giờ "thi hành ý Cha".Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những "người thu thuế" và "đĩ điếm", những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường "công chính", lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã "hối cải và tin vào lời Ngài". 
Thật là tuyệt vời nếu chúng ta nói rằng: “Con sẽ làm hay con cố gắng làm” và rồi thực tế là đã cố gắng làm việc đó.Có một người con như thế thật đẹp lòng Chúa biết bao. Thiên Chúa không chỉ cần ta hành động trong cuộc sống, mà Ngài con muốn mỗi người chúng ta vừa biết vâng lời như đứa con thứ hai, vừa biết thực hành như đứa con thứ nhất . 
Lạy Chúa, mẫu gương vâng lời và thực hành tuyệt vời là chính Con Thiên Chúa, Đấng đã vâng lời Cha trên trời cho tới chết, xin cho chúng con cũng vâng theo và thực thi ý Chúa mỗi ngày trong đời sống chúng con. Amen

LÀM THEO Ý CHÚA 
Mt 21, 28 - 32

Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Khi Chúa muốn ai đi làm một công việc gì thì chắc rằng điều đó có lợi cho loài người nói chung và bản thân người đó nói riêng. Do đó, chúng ta phải vâng lệnh và thi hành theo chương trình của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta hiểu về đời sống đạo đức đích thực được thể hiện qua việc làm chứ không phải bằng lời nói suông.

Cả hai người này đều là con của Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó, cũng không để ý đến lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm. Thật ra, Chúa thường sai tôi đi làm công việc cho Chúa dưới hình thức nào, có bao giờ hiện ra gọi đích danh tôi không ? Nếu Chúa hiện ra bảo tôi đi làm “vườn nho” chắc chắn tôi đã nói vâng và đi làm ngay, không dám chậm trễ. Tuy nhiên, Chúa không sai tôi trực tiếp mà sai tôi gián tiếp qua các vị bề trên, qua lời Kinh thánh, qua lương tâm, qua bổn phận trong cuộc sống. Ý Chúa thể hiện trong Mười Điều Răn, trong Tám mối phúc, trong lời giảng dạy của linh mục, bề trên, những câu giáo lý, hay qua những biến cố trong cuộc sống … Qua những gì đã hoặc sẽ xảy đến, tôi có thể đoán biết được mình là người thế nào, có những tính tốt hay tật xấu nào, cần phải làm gì … để xứng đáng là người con của Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, cả hai người con đều được mời gọi đi làm cho Chúa, một người xem ra không vâng lời nhưng biết hối lỗi và làm theo ý Chúa, một người xem ra công chính nhưng lại không thi hành giáo huấn của Chúa. Có thể nói, cả hai đứa con này là tiêu biểu cho hai hạng người được Chúa mời làm vườn nho của Chúa. Có người nói “vâng” nhưng lại lười cố gắng, bỏ thi hành lời Chúa; có người nói “không” nhưng biết suy nghĩ và hối hận về sự vô lối của mình nên đã thay đổi cuộc sống và tin theo Chúa. Chúa không xét bề ngoài nhưng xét từ trong lòng mỗi người, vì thế Chúa có thể chọn những tội nhân làm môn đệ và ban cho ơn cứu độ, trong khi một số người biệt phái cứng lòng không nhận ra Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải xét mình hằng ngày để hiểu rõ tấm lòng của mình đối với Chúa. Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt thứ hạng nào trong xã hội, vấn đề là mỗi người có làm, có sống theo lời Chúa dạy hay không.

Trong dụ ngôn này, người con thứ nhất nói: “con không đi”, cho thấy sự từ chối, bất tuân của kẻ tội lỗi, nhưng sau đó biết suy nghĩ lại, quyết tâm thay đổi và tuân phục thiên Chúa. Ngược lại, có những kẻ ngôn hành bất nhất, tỏ ra đạo đức nhưng chỉ là mồ mả tô vôi, không thi hành luật Chúa như lời họ nói. Khi Gioan Tẩy Giả đến làm phép rửa, nhiều tội nhân đến sám hối và chịu phép rửa, trong khi các kỳ lão, Biệt Phái lại từ chối lời mời gọi của Chúa, họ đã cứng lòng, bỏ qua mọi lời khuyên của Chúa. Những người mệnh danh là công chính này đã không nhận thấy thân phận yếu đuối nhiều lầm lỗi của mình. Phần chúng ta, chúng ta có hoán cải và lắng nghe tiếng Chúa luôn luôn không? Rất nhiều lần tôi chứng kiến ơn trở lại của người khác mà tôi có động lòng, từ bỏ lối sống cũ, mặc lấy Chúa kitô cách trọn hảo hơn trước không?

Chúng ta phải mau mắn thưa vâng và thi hành mọi lời Chúa dạy theo bậc sống, theo bổn phận của mình. Chúng con sẽ nổ lực thực hiện những gì mình hứa làm, nếu chúng con lỡ vấp phạm thì sớm ăn năn để được ơn tha thứ. Chúng ta có thể cầu nguyện, giúp đỡ những người khô khan, tội lỗi để họ trở về với Chúa và đến lượt họ khi trở nên sốt sắng sẽ là lời nhắc nhở chúng ta sống đạo tốt hơn.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn là những kẻ tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, nhưng Chúa không chấp tội chúng con, Ngài chỉ muốn con nhận ra được tình thương của Ngài và làm theo ý Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho Chúa một cuộc đời mới để xứng đáng với tình thương của Chúa hơn và mai sau được Chúa thưởng trên Thiên Đàng vinh phúc.

VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA
Mt 21, 28 – 32

Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.

Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.

Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.

Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.

Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?

Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.

Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.

Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa.

BIẾT NHÌN LẠI MÌNH 
Mt 21, 28 – 32

Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm. Nghĩa là con người biết nhìn lại những lời nói hay những việc làm của mình. Nhìn lại để thấy đâu là những điều tốt cần phát huy và đâu là những điều chưa tốt cần phải sửa chữa.

Người con thứ nhất trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay, đã biết sử dụng một cách tuyệt vời khả năng ấy. Lúc đầu khi nghe người cha kêu đi làm vườn nho thì nó trả lời: “Con không đi. Nhưng sau đó nó đã biết hối hận và đi làm”. (Mt 21, 29). Ngược lại đứa con thứ hai thì nhanh chóng đáp lời cha. Tuy vậy, đáng tiếc là nó lại không đi.

Hình ảnh đứa con thứ nhất Chúa Giêsu muốn nói đến là những người được coi là tội lỗi nhưng biết thật lòng ăn năn sám hối. Còn hình ảnh đứa con thứ hai chính là những thượng tế và các kỳ lão trong dân Do thái thời ấy. Bên ngoài thì họ làm ra vẻ rất ngoan ngoãn. Nhưng thực chất họ không những không đón nhận những lời chỉ dạy của các tiên tri mà cũng chẳng đón nhận Người cũng như những lời dạy bảo của Người. Đến nỗi một lần nọ Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói:"Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." (Mt 11, 16 – 19).

Chúng ta thường nghe nói: “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Cho nên Chúa Giêsu đã tuyên bố với các ông ấy: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Bởi lẽ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Như thế, không phải là Chúa Giêsu nhượng bộ hay dung túng cho những người được coi là tội lỗi này. Nhưng quan trọng là vì họ đã biết hối hận, sửa đổi lại cách sống sai trái của mình.

Là con người yếu đuối không ai là không có những lần sai lỗi. Điều quan trọng là sau những lần lầm lỗi đó chúng ta có biết nghe lời Chúa để quay đầu lại hay không. Augustinô là một trong những mẫu gương sống động cho chúng ta.

Hãy biết trân trọng và sử dụng sao cho có hiệu quả ơn độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người chúng ta. Đó là khả năng hồi tâm và biết sửa đổi.

ĐỨC TIN và HÀNH ĐỘNG
Mt 21, 28 – 32

Lm Trần Thanh Sơn

Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, nằm trong phần cuối sứ vụ tại thế của Đức Giêsu. Hiện tại, Ngài đã khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Mt 21, 1-11). Khi thấy dân chúng buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã đánh đuổi họ (x. Mt 21, 12-17). Thấy thế, các Thượng Tế và niên trưởng trong dân đã đến chất vấn Đức Giêsu: Ngài đã nhân danh quyền năng nào mà làm những việc đó. Để trả lời, Đức Giêsu đã chất vấn lại họ về thái độ của họ đối với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 21, 23-27). Tiếp đó, Ngài nói tiếp ba dụ ngôn để nhắc nhở về thái độ cứng tin của họ trước sứ điệp của Thiên Chúa. 

Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe hôm nay là dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn đó. Với dụ ngôn về hai người con này, Đức Giêsu muốn cảnh cáo thái độ cố chấp của những người Luật sĩ và Biệt phái. Họ đã nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, đã nghe lời rao giảng và chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Thế mà họ vẫn không tin, thậm chí còn nhân danh niềm tin để âm mưu hãm hại Đức Giêsu. Điều đó, cho thấy giữa lời tuyên xưng đức tin và hành động để chứng minh niềm tin của con người có một khoảng cách đôi khi thật gần, nhưng lắm lúc cũng thật là xa.

Dụ ngôn hôm nay kể lại, người kia có hai người con. Ông đến nói với người con thứ nhất đi làm vườn nho cho Cha. Người này nói “Không”, nhưng sau đó hối hận, anh ta lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại, anh ta mau mắn đáp lại: “Thưa Cha, vâng, con đi”, nhưng cuối cùng anh ta lại không đi.

Trước hết, chúng ta cùng quan sát người con thứ hai. Anh ta khi nghe cha bảo đi làm vườn nho, anh ta đã thưa “Vâng” thật mau mắn, nhưng cuối cùng anh ta chẳng làm gì. Khi đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta chê trách anh vì đã nói mà không làm. Tới đây, tôi nhớ một câu chuyện vui như sau: 

Tại một giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn quảng đại chia sẻ cho người nghèo”. Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn mỗi người nói lên quyết tâm của mình trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:

- Ông Hai! Ông có sẵn sàng sống bác ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?
- Vâng! Con nhất trí ạ!
- Vậy, nếu ông có hai con bò, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?
Ông Hai hiên ngang trả lời trước Cha xứ và cộng đoàn:
- Đương nhiên rồi thưa Cha!
- Nếu ông có hai căn nhà, ông hứa dâng một căn nhé!
- Bảo đảm trăm phần trăm với Cha.
- Nếu ông có hai con gà, ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?
- Ồ, không được, thưa Cha.
Cha xứ ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy? Tôi không hiểu. Sao nãy giờ, ông luôn nói đồng ý mà bây giờ, ông lại nói không?
Ông Hai thành thực thú nhận:
- Những thứ trước, Cha hỏi, nhà con không có, còn gà, nhà con có nhiều ạ!

Thế đó, ông Hai đã sẵn sàng nói sống bác ái, nhưng với những gì không đụng chạm đến cuộc sống của ông. Còn nếu việc bác ái đó cần đến một sự hy sinh nào đó của chính bản thân, cho dù đó chỉ là một con gà, thì ông không dám. Hình ảnh người con thứ hai và ông Hai trong câu chuyện trên đây, có lẽ một cách nào đó, đây cũng là hình ảnh của tôi và quý ông bà anh chị em. Chúng ta vẫn lớn tiếng tuyên xưng rằng mình mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình trong Nhà Thờ này, nhưng khi trở về trong cuộc sống, có lẽ tôi và quý ông bà anh chị em chưa thực sự sống bác ái như Chúa muốn. Chúng ta còn quá nhiều ganh tị, hờn ghét, lười biếng, đam mê và ích kỷ. Chúng ta còn để cho lòng tự ái và những điều thấy trước mắt lôi cuốn mình. Chúng ta chưa sống đúng với lời miệng chúng ta thưa với Chúa. Hay tắt một lời chúng ta nói nhiều mà chưa sống được bao nhiêu. 

Còn người con thứ nhất mặc dù đã trả lời “Không”, nhưng sau đó, anh ta đã hối hận và đã ra đi. Trong thân phận con người, với kinh nghiệm của bản thân, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, con người của chúng ta thật là yếu đuối, bất toàn. Biết bao điều lầm lỡ, yếu đuối chúng ta không muốn mà chúng ta vẫn làm (x. Rm 7, 15. 19. 24). Nhưng dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta. Ngài vẫn chờ chúng ta trở về để cứu sống chúng ta, như lời Ngài nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết.”. Người con thứ nhất đã nói “Không” trước lời mời gọi của Cha, nhưng sau đó anh ta đã hối hận và ra đi làm vườn nho. Anh ta hối hận vì anh nhận ra lời từ chối của mình đã làm cho Cha buồn, đã phụ lại với lòng mong mỏi, yêu thương của Cha mình. 

Như thế, bước đầu của việc trở lại đó là lòng thống hối, hay đúng hơn để có thể trở lại, chúng ta phải thật lòng khiêm tốn, nhận rằng mình là kẻ có tội, nhận rằng mình đang còn bất toàn, và thiếu thốn.

Có lẽ tới đây, lời Chúa hỏi những người đối thoại với Chúa cũng là đang hỏi tôi và quý vị: “Các ông nghĩ sao?
Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình?”. Và câu trả lời của chúng ta chắc hẳn là: người con thứ nhất. Vâng, đúng như vậy, ý của cha là đi làm vườn nho và anh ta đã làm đúng điều đó. Còn những điều khác không quan trọng.

Tuy nhiên, thái độ đẹp lòng Cha hơn cả có lẽ đó là thái độ của người con thứ ba. Người con mà bài Tin mừng hôm nay không nói đến, nhưng được thánh Phaolô mô tả tỉ mỉ trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe. Người con đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nói: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa,… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”. Đó mới đúng là người con đẹp lòng Cha nhất. Người con này đã thưa: “Này con xin đến, … để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10, 7) và đã thực hiện mọi sự đúng theo ý muốn của Cha cho dù đó là chén thập giá: “Lạy Cha! Nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con! Song đừng cho ý của con, mà là ý của Cha được thành sự!” (Lc 22, 42). Chính Chúa Cha cũng đã nhiều lần xác nhận: “Này là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (Mt 3, 17; x. Mt 12, 18; 17, 5).

Giờ đây, nhờ sự trợ lực của Thánh Thể, ước gì mỗi người chúng ta luôn sống theo gương mẫu của Đức Kitô như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”. Nghĩa là chúng ta hãy can đảm thưa “Vâng” trước lời mời gọi của Chúa và sống đúng với lời thưa vâng đó. Như thế, Thánh Lễ không kết thúc ở Nhà Thờ này, nhưng sẽ được tiếp tục trong suốt cuộc đời của chúng ta, trong đời sống vâng phục, chia sẻ, bác ái hàng ngày của chúng ta.
Amen.

NÓI - LÀM
Mt 21, 28 – 32

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con : Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết : người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.

Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất” : nói mà không làm. 

Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu : “Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông” ? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy : những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.

Chúng ta biết : từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói : “Ăn vóc học hay” : ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.

Câu nói : “Năng thuyết bất năng hành” : hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành : một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm ? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.

Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại : lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không ? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không ? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không ? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình ? Hay là “ chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” ? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm : chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không ? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không ? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo : những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao ?

CON NGƯỜI ĐƯỢC TỰ DO VÌ PHỤC VỤ THIÊN CHÚA
Mt 21, 28 - 32
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong tiếng la to, cổ võ của một đám đông dân chúng. Họ hô vang:” Hosanna”, con vua Đavít. Tuy nhiên, các người Biệt phái, Luật sĩ, Thượng tế, kỳ lão và những người Do Thái, ghen tức, căm phẫn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không chịu dừng bước, Ngài nhất định vào Giêrusalem. Trong bối cảnh ấy, Chúa Giêsu luôn gặp sự quấy rầy của các thượng tế và kỳ lão, họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào đã cho phép Ngài nói và hành động như vậy:” Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó”( Mt 21, 33 ). Tuy nhiên, Chúa Giêsu từ chối trả lời của họ bao lâu họ còn né tránh câu hỏi của Ngài:” Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người”( Mt 21, 44 ). Trong sự tranh cãi gay gắt giữa những vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu đã cho họ một lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: “ Dụ ngôn hai đứa con trai được sai đi làm vườn nho “

DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON: Đọc dụ ngôn này, chúng ta cảm thấy sâu xa ngụ ý của Tin mừng matthêu 21, 28-32. Đoạn Tin mừng này hàm ẩn một vẻ đạm bạc đặc biệt, ở đây, chúng ta bỏ qua mọi chi tiết phụ để chỉ làm nổi bật sự tương phản hầu như hoàn toàn đối nghịch của hai người con. Tương phản trong thái độ ban đầu của hai người con. Người con thứ nhất xem ra đã cư xử một cách bộc trực, vụng về khi người con này phản đối thẳng thừng lời đề nghị đi làm của người cha. Người con thứ nhất đã phản ứng dứt khoát, nhưng rất hời hợt và có vẻ như không hề suy nghĩ khi trả lời:” Tôi không muốn đi “. Trái lại với người con thứ nhất, đứa con thứ hai đã tỏ vẻ kính cẩn, nhuộm mùi khúm núm khi cha nó đề nghị nó đi làm trong vườn nho. Nó thưa:” Vâng, thưa cha”. Với thái độ kính cẩn này, chúng ta có cảm tưởng như người con thứ hai sẽ chấp hành nghiêm túc lời đề nghị của người cha. Tuy nhiên, hai thái độ hai thái cực, hai lời ứng đáp rất khác nhau nhưng cũng tỏ rõ lập trường của mỗi người con. Người con thứ nhất trả lời thẳng thừng với cha không đi, nhưng rồi nó hối hận, sự thống hối thúc đẩy nó vâng lời, nó đã vui vẻ trở lại và đi làm trong vườn nho. Người con thứ hai tỏ vẻ khúm núm và tỏ ra kính cẩn vâng phục nhưng cuối cùng nó chẳng làm gì hết.

ẨN Ý CỦA TIN MỪNG VÀ Ý HƯỚNG CỦA CHÚA NHẬT HÔM NAY: Khi hiểu rõ thái độ, cung cách ứng xử của hai người con. Chúa Giêsu quay lại phía người chất vấn Ngài và hỏi họ:” Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha ?”. Tất cả chỉ có thể đồng loạt trả lời:” người con thứ nhất “. Rõ ràng, người con thứ nhất được phán xét theo việc làm, hành động của nó, chứ người ta không dựa trên lời nói ngoài môi miệng mà thôi. Đọc đoạn Tin mừng này, nhân loại và mỗi người chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu chuyển qua việc áp dụng dụ ngôn. Chúa Giêsu đã đặt họ trước hai sự việc: vừa tự phán xử, vừa tự kết án mình:” Thật, Ta bảo thật các ngươi: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan tẩy giả đã đến với các ngươi, sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối cải, không tin lời Ngài”. Các thượng tế và kỳ lão trong dân xem ra rất gắn bó với lề luật và giữ tỉ mỉ lề luật, nhưng chỉ hình thức mà thôi. Họ ẩn núp, lấy chiêu bài lề luật để từ chối sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mạng của Gioan tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa. Những người sống ở ngoài, những người không đạo, bị người Do Thái và xã hội khinh bỉ lại là những người đã đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu, cũng như lời rao giảng của Gioan tẩy giả. Họ đã hoán cải và tin vào Tin mừng, tin vào lời của Đức Giêsu.

Đoạn Tin mừng Mt 21, 28-32 và ý hướng của Chúa nhật này là Hội Thánh luôn mở rộng đón nhận mọi người miễn là những người tội lỗi biết ăn năn, hối cải và quay trở về với Chúa. Điều cốt lõi là tấm lòng chứ không phải là những người chỉ kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa ngoài môi miệng”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mau mắn và sẵn sàng vâng theo lời Chúa.

GÁI ĐIẾM VUI VẺ VÀO NHÀ CHA
Mt 21, 28 – 32
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Giả từ Galilê, Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiến về Giêrusalem - nơi Người giảng dạy, chịu khổ nạn và chịu chết như Người đã loan báo. Chính tại đây, không ít lần Chúa Giêsu đụng chạm với nhóm thượng tế và kỳ mục dân Dothái. Chúng ta thấy dường như nhóm người này được cất nhắc lên không phải làm lãnh đạo, làm thầy dạy cho dân mà để rình mò, gài bẫy, lên án và chất vấn Chúa Giêsu về mọi lãnh vực. Chính vì thế mâu thuẫn nảy sinh giữa Chúa Giêsu và họ mỗi ngày càng thêm nghiêm trọng. Trong khi giảng dạy, thấy cảnh chướng tai gai mắt xảy ra nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đã đánh đuổi bọn buôn bán ra khỏi nơi thờ phượng. Nhóm thượng tế và kỳ mục lấy làm khó chịu bởi lẽ Chúa Giêsu đang đụng đến “nồi cơm” của họ. Bởi thế họ lên tiếng chất vấn Người đã dùng quyền bính nào để làm những điều ấy. Trong bối cảnh đó, dụ ngôn “hai người con” ra đời không chỉ là câu trả lời mà còn là lời lên án của Chúa Giêsu nhắm trực tiếp vào nhóm người này.

Câu chuyện xem ra đơn giản và dễ hiểu về nội dung nhưng lại sâu sắc về mặt đạo lý. Các thượng tế và kỳ mục - dĩ nhiên, trả lời rất chính xác câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho họ. Với câu trả lời này, vô hình trung, chính họ đã tự buộc mình, tự kết án chính mình. Bởi Chúa Giêsu đã không ngần ngại sánh ví họ như đứa con thứ hai vâng vâng dạ dạ lời dạy của cha nhưng rồi chẳng thực thi lời cha truyền. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Ở đây Chúa Giêsu không có ý nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước, còn mấy ông thượng tế và kỳ mục vào sau. Trong ngôn ngữ Sêmít, “trước” ở đây không phải hiểu theo nghĩa “trước - sau” mà được hiểu theo nghĩa “được- mất”. Theo đó, những người thu thuế và những cô gái điếm vào được nước Thiên Chúa, còn các ông thượng tế và kỳ mục thì không được vào. 

Lý do mà các vị thược tế và kỳ mục Dothái không được vào nước Thiên Chúa là bởi vì họ không tin theo đường công chính mà Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng như không chấp nhận sự hiện diện của Chúa Kytô ở trần gian này. Họ vâng vâng dạ dạ với Thiên Chúa nhưng kỳ thực là để cố thủ, gắn bó với lề luật một cách giả tạo. Họ tự tạo ra trăm ngàn khoảng luật và tự cho mình là đã gắn bó và vâng lời Thiên Chúa. Thực ra, những con người này chỉ nấp đàng sau lề luật, mượn danh lề luật để từ chối sứ mạng của Gioan Tẩy Giả cũng như tìm mọi cách khước từ lời rao giảng của Chúa Giêsu - người mà họ biết là có uy quyền và sức quyến rũ lạ thường. Họ cố thủ trong thành trì lề luật của họ để không ngừng chỉ trích, lên án lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận cách giáo huấn cũng như con người Chúa Giêsu. Không đón tiếp Chúa Giêsu cũng đồng nghĩa với việc họ từ chối con đường dẫn vào nước Thiên Chúa.

Ngược lại, những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được xem là công khai hoá đường tội lỗi của mình, bị người Dothái và đặc biệt là mấy ông thượng tế và kỳ mục liệt vào hạng “hết thuộc chữa”, là loại thối tha, đáng nguyền rủa,… lại được Chúa Giêsu sánh ví và khen ngợi như người con thứ nhất trong dụ ngôn. Sánh ví và khen ngợi những con người này, Chúa Giêsu không hề cổ xuý cho những hành động tội lỗi công khai của họ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là người lên án mạnh mẽ sự ác và tội lỗi cũng như không bao giờ Người thoả hiệp theo đường tội lỗi. Chúa Giêsu trân quý họ bởi vì những con người này từ chỗ coi thường sự công chính, không chấp nhận sự ràng buộc của lề luật, chôn vùi cuộc đời trong vũng lầy tội lỗi,… đến chỗ họ ý thức về đường tội lỗi của mình để rồi hối cải ăn năn và tìm về với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả cũng như tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu. 

“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21). Mấy ông thượng tế và kỳ mục Dothái thường hay khoe khoang lòng đạo đức của mình, vênh vang với người khác về việc mình thực thi nghiêm chỉnh giới luật của tiền nhân, tự đắc vì mình luôn trung thành với truyền thống giao ước của Giavê. Họ tự cho rằng mình đã “đắc đạo”, đã giác ngộ và không cần phải phản tỉnh, không cần phải duyệt xét lối sống nhầy nhụa sự ô uế vốn được sánh ví như mồ mả tô vôi. Thế nên, mãi mãi họ cũng chỉ là những con người chỉ biết dùng đầu môi chót lưỡi để xưng tụng danh thánh Chúa nhưng lòng dạ thì ngập tràn kiêu căng và tự mãn, mãi mãi họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm, những người không sống theo nguyên tắc, theo luật lệ, luôn luôn chống đối, nhưng lại biết phản tỉnh, biết thay đổi thái độ, biết nhận ra những giới hạn của bản thân, biết hoán cải để đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Chính vì thế, cửa trời rộng mở đón tiếp họ bởi họ đã biết tiếp nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, của Chúa Giêsu và đã thành tâm hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay.

Ý thức thân phận yếu hèn, tội lỗi và không ngừng thống hối ăn năn được xem là điều kiện tiên quyết, là chìa khoá để được vào nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không ưa thích những câu chúc tụng trống rỗng chỉ nhằm loè thiên hạ. Ơn cứu độ chỉ thực sự ban cho những ai biết mở lòng mình ra đón nhận Lời Chúa Kytô, biết phản tỉnh và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta : Những người thu thuế và những cô gái điếm vui vẻ hân hoan đến rơi lệ bước vào nước Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?...

DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON
Mt 21, 28 – 32

Lm Đan Vinh

1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ : "Tôi bảo thật các ông : Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31).

2) CÂU CHUYỆN: 
- NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao.
Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng : cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng : "Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế ?" Cô gái đáp :"Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ !". Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi :"Thế đức hạnh của ngươi ra sao ?". Cô đáp : "Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả !".

Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên : Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau : "Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy" (c 32).

- ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI ?
Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giê-su khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau :

Hôm ấy khi được Đức Giê-su cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng : "Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con :Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con !". Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giê-su cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.

Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giê-su lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau : "Lạy Chúa Giê-su, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này". Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giê-su thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta : "Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay !". Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng : "Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con". Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giê-su rằng : "Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta ? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy ?". Bấy giờ Đức Giê-su mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau : "Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao ? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta".

Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng : Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu : "Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp". Hoặc câu khác : "Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối". Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?

3) SUY NIỆM : 
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ : "Tôi bảo thật các ông : Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông". Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ "vào trước" không chỉ có nghĩa là "trước" so với "sau", nhưng là "thay thế". Vì các đầu mục Do Thái "đã không tin" (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ "vào sau". Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau : "Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông". Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.

- TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất : "Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết " (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó ! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai : Người cha đến nói với đứa con thứ hai : "Con hãy đi làm vườn nho cho cha". Nó đáp : "Thưa vâng, con đi". Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói : "thưa vâng" với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã "thưa vâng" nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường "thưa vâng" như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời "thưa vâng" như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.

- TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau : "Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình" (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là : Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su.

- VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài : "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giê-su dạy : "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : "Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay : Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc "ngôn hành bất nhất" thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.

4) THẢO LUẬN :
Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa?

Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói : "Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy". Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận : "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!". Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay : Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!

LẠY MẸ . Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

THỨC TỈNH TRỞ VỀ
Mt 21, 28 – 32

Lm Nguyễn Bình An

Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm "Ngọn núi bẩy tầng" (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.

Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. "Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về". Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!

Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc.Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết "thần học giải phóng". Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.

Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô... đã thành công và trở thành những "tín hữu thật" theo quan niệm của Soren Kierkegaard "Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu". Quả vậy tâm tình "ngại núi e sông" đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.

Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay còn mai mất!!

SỰ THỐNG HỐI ĂN NĂN
Mt 21, 28 – 32
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán : "Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ " (Os 6, 6; Mt 9, 13). "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10). 

Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.

Trách nhiệm của con người 

Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời : vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo : " Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết " (Ed 18, 28). 

Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói "vâng", "tôi biết", "tôi thực hành giáo lý" mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói "không" với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.

Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố : "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu : ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!

Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước 

Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: "Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước" (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.

Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.

Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện... như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).

Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước : "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" (Mt 21, 32).

Hoán cải không bao giờ là muộn.

Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời" (Mt 7, 21). 

Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.

Họ nói "vâng" với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói "vâng" nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch : những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói "không" với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói "có", nên Chúa Giêsu tuyên bố : "Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" (Mt 21, 43).

Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói "có" ... " Con không đi'. Nhưng sau hối hận và đi làm" (Mt 21, 29).

AI NGOAN NHẤT
Mt 21, 28 – 32

Lm Ansgar Pham Tĩnh

Xin phép bạn cho tôi được paraphrase bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay một chút.
Các bạn nghĩ sao?Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Nó đáp: "Con không muốn đâu! " Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây! " nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai là người con ngoan của ông chủ vườn nho? 

Tôi đoán thế nào bạn cũng trả lời giống như những anh biệt phái: “Dĩ nhiên đó là người con thứ nhất!” 

Nếu vậy thì bạn... lầm to! Trong hai anh con trai, chẳng có anh nào ngoan cả, cả hai đều cứng đầu, bướng bỉnh và phạm tội không vâng lời cha mình.

Bạn có biết tại sao cả hai người con lại không muốn đi làm vườn nho hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là tại vì hai anh chàng này sợ “phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt. 20:12) cho nên mới ngần ngại không muốn đi làm vườn nho như ý cha của hai anh muốn.

Bạn thân mến, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, bạn và tôi, chúng mình đã trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng mình đều được sai đi làm vườn nho cho Ngài. 

Thế nhưng, bạn và tôi cũng giống như hai người con trong dụ ngôn vậy! Chúng mình đều là những đứa con cứng đầu, bướng bỉnh và hay bất tuân lệnh của Cha. Chúng mình sợ phải làm việc nặng nhọc, và sợ bị nắng nôi thiêu đốt.

Giống như hai người con trai trong dụ ngôn, bạn và tôi thường có hai thái độ trước giáo huấn của Giáo Hội: 

Một là tỏ ra khó chịu, bất mãn và phản kháng, chống lại một cách công khai.

Hai là chỉ ậm ừ cho qua chuyện, ngoài mặt thì vui vẻ tỏ vẻ vâng lời nhưng trong thực tế lại dửng dưng, làm lơ, không thực hành. 

Tôi làm lơ và thậm chí bất tuân những lời dạy dỗ của Giáo Hội về những vấn đề liên quan đến luân lý và đạo đức. Ví dụ như không được chung sống với nhau trước khi làm lễ cưới, không được phép ly dị, không được xem phim có dính dáng tới...Trư Bát Giới, không được dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, không được phá thai, không được thí nghiệm trên phôi thai người... 

· Tôi bực bội và làm lơ đến lời mời gọi của Chúa trong những thánh lễ ngày Chúa Nhật và lễ buộc. Tôi lý luận rằng ở nhà tôi cũng tôn thờ Chúa, cũng yêu Chúa được vậy? Làm việc cả tuần lễ tôi cần phải có thời gian để relax, enjoy, nghỉ ngơi, đi shopping, đi câu cá, đi casino...

· Tôi bất mãn, phản đối và có khi nổi loạn vì Giáo Hội khẳng định rằng phụ nữ sẽ không được làm linh mục; khẳng định rằng noi gương Chúa Kitô, linh mục phải sống đời sống độc thân để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng: một là lập gia đình hai là sống độc thân chứ không có cái kiểu bắt cá hai tay, vừa muốn có vợ, lại vừa muốn thiên chức linh mục. 

Bạn thân mến, bạn và tôi, chúng mình đều là những người con bướng bỉnh đã và đang bất tuân những lời dạy bảo, khuyên nhủ của Thiên Chúa qua những giáo huấn của Giáo Hội. Chúng mình hãy bắt chước anh con trai lớn: HÃY HỐI HẬN ĂN NĂN.

· Chúng mình hãy ăn năn sám hối vì những lần chúng mình bất tuân những giáo huấn của Giáo Hội bởi vì khi tôi phản đối quyền giáo huấn của Giáo Hội là khi đó tôi bất tuân Thiên Chúa “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”(Mt. 16:18-19).

· Chúng mình hãy xin lỗi Chúa bằng cách đi xưng tội thường xuyên hơn, một tháng một lần, đừng để 6 tháng hay 1 năm mới đến hòa giải với Chúa. Mỗi lần đến xưng tội là mỗi lần bạn và tôi lãnh nhận được rất nhiều ơn thánh. Thiên Chúa vui mừng và cả triều thần trên trời cũng vui mừng vì một người tội lỗi như tôi cũng như bạn ăn năn hối lỗi, quay trở về với Ngài (Luke 15:7).

ĐỪNG CHẦN CHỜ NỮA! HÃY ĂN NĂN, HỐI HẬN VÌ NHỮNG LẦN CHÚNG MÌNH BƯỚNG BỈNH, CỨNG ĐẦU CỨNG CỔ, BẤT TUÂN LỜI GIÁO HUẤN CỦA CHÚA QUA TRUNG GIAN LÀ GIÁO HỘI.

NGƯỜI VÂNG LỜI ĐÍCH THỰC
Mt 21, 28 – 32

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đối với Thiên Chúa sự trung tín, lòng chân thành và sự công chính thánh thiện không chỉ được nằm trên đầu môi chóp lưỡi mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Tin Mừng hôm nay và hai bài đọc cho chúng ta thấy rõ ai là người thực hiện ý của cha mình và ai là người chỉ có hứa suông hứa cuội. Tin Mừng Mt 21,28 – 32 cho biết người làm vừa lòng cha là người vâng lời và thực hiện lời của cha, chứ không phải chỉ hứa làm mà không làm theo ý của cha.

Ý TƯỞNG CÁC BÀI ĐỌC CHÚA NHẬT HÔM NAY: 
Ngôn sứ Ê-dê-kiên trong đoạn 18, 25-28 viết: tư tưởng và đường lối của con người không phải là tư tưởng và đường lối của Chúa. Đường của Chúa và việc Ngài hành động hoàn toàn công minh chính trực. Ngôn sứ Ê-dê-kiên nói rằng “ người con vâng lời là người con làm theo ý của cha. Thiên Chúa là cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Do đó, Ngài gọi con người, mời gọi chúng ta đi theo con đường của Ngài. Thiên Chúa còn mời gọi kẻ gian ác quay trở về, bỏ đường gian ác mà đi theo đường công minh chính trực thì Ngài sẽ cứu họ ban cho họ sự sống, họ không phải chết. Vị ngôn sứ còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người và đề cao sự hoán cải của con người. Và để làm rõ tư tưởng của ngôn sứ Ê-dê-kiên, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philip 2, 1-11 đã kêu gọi cộng đoàn Philip hãy hợp nhất với nhau bởi vì Chúa Kitô, là Con Thiên Chúa đã hiến thân vì phần rỗi con người. Đó là tấm gương mà mỗi người Kitô hữu chúng ta phải bắt chước quên mình để phục vụ tha nhân, phục vụ anh em. Thánh Phaolô đã viết:” Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự “ ( Pl 2, 5 – 8 ). Chính vì thế, người con vâng lời phải có thái độ khiêm tốn, quên mình, chỉ biết triệt để phục vụ và vâng lời thực thi ý của cha cho đến hy sinh chính mạng sống của mình. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu làm nổi bật ý nghĩa bài đọc I và bài đọc II. Thánh Matthêu trình bầy dụ ngôn hai người con, Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc vâng phục ý của cha và thực thi ý của cha. Thánh sử cho đây là điều kiện thiết yếu để đạt được Nước Trời, có Chúa làm gia nghiệp.

Ý NGHĨA CHÍNH YẾU CỦA ĐOẠN TIN MỪNG Mt 21, 28 – 32: 
Trình thuật cho hay cả hai người con đều được cha mời gọi làm việc cho cha trong vườn nho. Người cha cũng hoàn toàn bầy tỏ cho hai người con biết họ đều là con của cha. Điểm khác biệt ở đây là người con có làm hay không làm việc theo ý của người cha. Thiên Chúa luôn yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai dù họ là người Do Thái hay người ngoại. Ngài muốn cứu độ mọi người nhưng con người có được cứu hay không là do mỗi người có làm theo ý của cha hay không làm theo ý của cha. Dụ ngôn này được áp dụng cho hai hạng người Do Thái. Một hạng người cho mình là công chính, thánh thiện, đạo đức vì họ giữ tỉ mỉ mọi lề luật như may dài tua áo, tay đeo thẻ kinh, đi đâu cũng muốn cho người khác gọi mình là thầy, là bậc thông thái vv…Đó là người Pharisiêu, Kinh sư, các thầy thông luật, biệt phái. Hạng người khác bị loại vào hạng thu thuế, tội lỗi, nghèo hèn. Dụ ngôn này người con thứ nhất được coi như hạng thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Họ bị đẩy ra khỏi lề xã hội, bị khinh miệt. Tuy nhiên, họ đã thành tâm thống hối, quay trở về với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Chúa đã nói một câu làm những người Pharisiêu, biệt phái, thông luật cảm thấy trơ trẽn, kinh ngạc: ” Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông “( Mt 21, 31 ). Chúa Giêsu ám chỉ người con thứ hai là các thượng tế và kỳ mục. Họ tự cao, tự đại cho mình là công chính nên họ đã không được vào Nước Trời. Tệ hơn nữa, họ không tin Đức Kitô là Con của Thiên Chúa được sai đến trần gian để cứu độ trần gian. Như thế, Nước Thiên Chúa thuộc về những người có lòng tin. Tin vào Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa cha sai tới trần gian để cứu độ gian trần.

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: 
Chúa Giêsu đã làm gương cho con người, cho loài người, cho mỗi người. Người không bao giờ rao giảng điều gì mà Người đã không thực hiện trước. Lời của Người là lời hằng sống. Lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau. Giữa cuộc sống của Chúa và lời nói của Người không bao giờ có khoảng cách. Còn các kinh sư, biệt phái, thượng tế, họ nói nhiều mà không làm. Ngôn hành bất nhất. Do đó, Chúa nói với các môn đệ và chúng ta: ” Ngôn hành phải đi đôi với nhau “. Nói mà không làm giống như đứa con thứ hai trong dụ ngôn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy bắt chước Chúa: ” …Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc “( Ga 5, 17 ) hoặc nói như thánh Giacôbê: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ ( Gc 2, 26 ). Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý cha:” Lạy cha nếu được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con mà theo ý của cha mà thôi “. Chúa luôn nói:” Không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời đâu, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy “ ( Mt 7, 21 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa “. Amen.

NGÔN HÀNH NHƯ NHẤT
Mt 21, 28 – 32

Lm Jos Tạ Duy Tuyên

Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia - Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt”.

Một bà mẹ 73 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: "Thương con cho roi cho vọt". Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.

Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: "Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v... Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo". Bà Ar-gut còn viết tiếp:

"Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi".

Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay. 

Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ. 

Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non - Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.

Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.

Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm. 

Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”. 

Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa. 

Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Cờ bạc, rượu chè bê tha. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo.. . 

Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen

XIN ĐƯỢC MÃI LÀM  “NGƯỜI CON THỨ NHẤT”!
Mt 21, 28 – 32

LM Trương Đình Hiền

1. Người con thứ nhất là những ai ?
Dụ ngôn “Hai người con” được Matthêu tường thuật hôm nay chắc chắn nằm trong một loạt những dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng trong các cuộc tranh luận với những người ký lục và biệt phái, để vạch trần tính kêu căng, hợm hĩnh, giả hình, bất khoan dung… trong cung cách sống đạo và ứng xử với tha nhân của họ. 

Không chỉ liên quan đến những người luật sĩ và biệt phái ngày xưa, lời dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn Tin Mừng vừa được công bố vẫn còn nguyên giá trị giáo dục đức tin dành cho tất cả chúng ta hôm nay.

Bởi chưng, khi dừng lại để kiểm điểm cuộc đời, nào chẳng phải đã bao lần chúng ta cố tình quên mất thân phận tội lỗi của mình để kiêu căng hợm hĩnh tự cho mình là kẻ không làm điều gì gian ác, chu toàn lề luật “trăm phần trăm” và an nhiên tự tại với lối sống đạo và đối nhân xử thế đầy sai lệch và ích kỷ của mình đó sao ! 

Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những người Ký lục và Biệt phái nói mà không làm, bắt kẻ khác giữ lề luật nhưng chính họ lại trốn tránh..Thì hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thể hiện niềm tin không chỉ bằng lý thuyết hay lời nói suống; mà phải là những chứng nhân sống động trong mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa và nghĩa thiết với anh em.

Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã từng dị ứng với cách hành đạo của những luật sĩ và biệt phái khi họ bắt kẻ khác giữ những điều tỉ mỉ, có khi chính họ đã bày vẽ ra để chất thêm gánh nặng cho kẻ khác, nhưng chính họ lại phủi tay chẳng buồn thực hiện; thì hôm nay Lời Chúa cũng đang thúc bách chúng ta hãy chu toàn những điều bé nhỏ nhất cùng với anh chị em trong tình hiệp thông và liên đới cộng đoàn.

Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã thẳng mặt vạch trần lối sống đạo giã hình, kiêu căng, tự hào công chính và kế thừa di sản đức tin chính truyền, biến lề luật thánh thành những điều lệ vô căn cứ, biến Lời Hằng Sống của Thiên Chúa thành một mớ những giải thích vòng vo, những nghiêm lệnh nặng nề… để gạt ra ngoài những kẻ yếu đuối, tội lỗi, thấp cổ bé miệng…; thì hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dạy bảo chúng ta như Ngài đã dạy bảo dân Do Thái cách đây 2000 trước con đường "thực thi đức công chính mới" mà thái độ trước tiên chính là sám hối hoán cải, đó cũng chính là Tin Mừng mà ngay từ buổi xuất hiện công khai Ngài đã long trọng công bố : “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14)

Mà chân lý nầy đâu có phải mới mẻ gì đâu ! Đó cũng chính là điều mà Thiên Chúa đã từng phán dạy ngày xưa trong thời Cựu ước như hôm nay chúng ta đã nghe sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong bài đọc 1 : “Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình…”. Đó cũng chính là điều mà dụ ngôn Tin Mừng hôm nay đã khắc họa bằng chân dung “người con thứ nhất”. 

- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Lêvi bỏ bàn thu thuế, đứng dậy theo Đức Kitô để trở thành Tông Đồ sao ? 

- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Maria Mađalêna với những giọt nước mắt sám hối chân thành nhỏ trên chân Chúa để từ đó đứng lên làm lại cuộc đời trong ánh sáng và tình yêu sao ? 

- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Gia Kê với thái độ tò mò đến ngây thơ trèo lên cây sung để nhìn cho được mặt Chúa, rồi sau đó tiếp rước Chúa vào nhà mà bắt đầu một cuộc sống mới sao ? 

Và - Người con thứ nhất đó chẳng phải là tên tử tội sắp sửa lìa đời đã ngước nhìn về phía của Chúa Chịu đóng đinh với những lời thân thương và đầy lòng trông cậy : “Khi Thầy vào Nước của Thầy, xin nhớ đến tôi”…Và Chúa đã hứa chắc : “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”, 

Vâng, - Người con thứ nhất đó cũng chính là những người mà Ngài đã long trọng công bố đích danh ngày nào trước mặt những ký lục và biệt phái : “Người thu thuế và hạng gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”. 

Phải chăng đó là một “nghịch lý của Tin Mừng, mà nói như Bosuet “sự trái ngược chỉ có Thiên Chúa mới làm được” hay như văn hào Mauriac : “Trong những tâm hồn trước đây lửa dục vọng nung cháy thì Chúa đến khơi lên một bầu lửa tình. Họ biết rằng họ càng dơ bẩn thì càng được Chúa thương nhiều. Thương nhiều vì dơ bẩn nhiều”. 

Đó chính là tinh thần khiêm hạ, khó nghèo của Chúa Kitô đã chọn lựa để nhập thể, để sống và để chết như Thánh Phaolô đã khắc họa trong thánh thi Philip được công bố trong BĐ 2 hôm nay :

"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự...".

Cuộc đời đó, giáo huấn đó có gì xa lạ với nhịp sống đức tin của chúng ta hôm nay. Chính vì thế, ở giữa lòng Hội Thánh, trong "Vườn Nho Giáo Hội" hôm nay chúng ta hãy xin mãi được trở thành những "người con thứ nhất".

2. Xin được làm những “người con thứ nhất” !

Và cộng đoàn Giáo Hội ngay từ thuở ban đầu đã được làm nên bởi phần đông những con người như thế : những kẻ đã từng bỏ Thầy chạy trốn như các Tông Đồ, chối Thầy ba lần như Phêrô, bắt bớ đạo Chúa như Phaolô, những cô gái điếm hoàn lương, những anh chàng mù sáng mắt, những phụ nữ lẻo đẻo tháp tùng Chúa đi lên đồi Sọ, những bà góa nghèo chỉ có mấy đồng xu ten để bố thí, những kẻ phung cùi lành bệnh, những thanh niên đã từng bị quỷ ám, những trẻ thơ được Chúa chúc lành, người phụ nữ bệnh hoạn đã từng chạm đến gấu áo Chúa Giêsu…

Và sau đó, trong ký ức của Hội Thánh, chúng ta lại đọc thấy bao nhiêu bóng dáng những “người con thứ nhất” như :

- Augustinô đã có một thời thanh niên buông thả và lầm lạc, nhưng rồi, nhờ những giọt nước mắt nguyện cầu của người mẹ tuyệt vời Monica, sau đó đã trở thành Giám Mục và Giáo phụ thời danh của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu tiên. 

- Phanxicô Assisi, chàng thanh niên giàu có lêu lổng, đã một lần nghe tiếng gọi của Lời Chúa và cương quyết dấn thân vào con đương hẹp của Tin Mừng. Cuộc đổi đời và sám hối đó đã thổi vào Giáo Hội lúc bấy giờ và mãi cho tới hôm nay một luồng gió canh tân trở về nguồn cội của Tin Mừng.

- Trong lịch sử Giáo Hội Viêt Nam, cũng không thiếu những Chứng nhân anh hùng, như các Thánh Phan Viết huy, Bùi Đức thể, Đinh Đạt, là những quân nhân, dù cho đã có lần yếu đuối chối đạo, nhưng sau đã trở lại cương quyết làm chứng đức tin và đã anh dũng lãnh nhận cành lá thiên tuế Tử đạo…

Phải chăng đó là “những người con thứ nhất” mà dụ ngôn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu từng ám chỉ. Và như thế, “Vườn Nho của Cha” mãi mãi đang cần những hạng “người con thứ nhất” đó để đi vào canh tác và xây dựng, để chăm sóc và giữ gìn. Và như thế, tất cả chúng ta đều có lý do để hân hoan cảm tạ, để phấn chấn và hy vọng ắp đầy. Bởi vì chúng ta đang thấy mình trong chân dung của “Người con thứ nhất”, người con đã hơn một lần nghe tiếng Cha vẫy gọi “Hãy đi làm vườn nho cho Cha nhé!” nhưng đã yếu đuối khước từ vì biết bao lỗi lầm thiếu sót, bao phản bội vong ân… 

Sám hối ăn năn, làm lại cuộc đời, phải chăng đó chính là của lễ mà Chúa ưa thích nhất : “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát., một tâm hồn tan nát dày vò Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50), và đó cũng chính là tâm tình khiêm hạ và vâng phục của chính Chúa Giêsu, một chọn lựa căn bản để Ngài hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại (BĐ 2), một tâm tình mà mỗi người chúng ta luôn luôn mang lấy theo mình như lời thúc dục của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay : “anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô”. Và chính trong tâm tình đó, chúng ta sẽ nhiệt thành đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa trên mọi nẻo đường đời : “Con hãy đi làm vươn nho cho Cha nhé”… bằng lớp đáp khiêm nhu : “xin cho con mãi được làm người con thứ nhất”…

HÃY LÀM NGAY HÔM NAY
Mt 21, 28 – 32
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Những gì hôm qua thì đã qua, chuyện ngày mai thì chưa tới, còn việc hôm nay thì đang ở trong tầm tay. Đã là người có lương tri bình thường thì không ai vô tâm, bạc tình khi sống quay lưng với cội nguồn lịch sử và cũng ít có ai sống mà không hướng tới tương lai. Tuy nhiên, không thể chối cải rằng cái hôm nay mới là cái mang tính quyết định. Chính vì thế nhiều lúc chúng ta cần phải có thái độ “tự do” một cách nào đó với những gì đã qua và với những gì chưa tới.

Đừng quá bám víu vào sự đã qua dù đó là những thành quả lẫy lừng, những chiến công hiển hách hay là những thất bại ê chề, những lỗi lầm tủi nhục. Nếu quá khứ của ta là những sự màu hồng thì đáng trân trọng nhưng hãy coi chừng chuyện thường tình kiếp người rất dễ ngủ quên trên chiến thắng và nhất là hãy đề phòng cám dỗ tự kiêu, tự mãn, một cám dỗ thường gây “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Thực tiển cho thấy chuyện vì tự hào, tự mãn“đã đánh thắng hai đế quốc to”, nên các nhà lãnh đạo nước Việt đã dần đưa đất nước ngụp lặn trong hố sâu của nghèo khó, tụt hậu do chính cái tư duy, nếp nghĩ và cung cách hành xử kiểu “chủ quan, duy ý chí”. Nếu quá khứ của ta vướng đầy những sự nhuốm màu tím hay đen thì cũng đáng nghiền ngẩm để tự kiểm và rút kinh nghiệm, nhưng cũng phải canh chừng cám dỗ buông xuôi, ngã lòng. Lỗi lầm nào cũng để lại vết thương đau. Thất bại là mẹ thành công. Có người do bị ám ảnh bởi những lỗi lầm, hay thất bại của quá khứ mà nản chí, buông xuôi. Cũng có người biết tích lũy những vết thương đau thành chuổi kinh nghiệm làm nền tảng cho những thành quả hôm nay. Bài học lịch sử thật đáng quý, tuy nhiên lịch sử không phải là vòng tròn lặp lại cái đã qua như cũ, như xưa.

Đừng quá ảo vọng vào những gì chưa đến. Tương lai thường chất chứa những sự tốt đẹp, vì đó là ước mơ của con người. Chẳng ai lại đi mơ ước điều xấu xa tồi tệ cho chính mình. Họa hiếm mới có một đôi người, khi ở trong tình trạng bất bình thường, mới mong những sự chẳng nên cho bản thân. Đã là người, cần phải có hoài bảo và ước mơ. Tuy nhiên cũng cần thận trọng trước cám dỗ xa rời thực tế. Đã có đó một vài chủ thuyết vẽ vời viễn ảnh tương lai “to đẹp hơn gấp mười, gấp trăm ngày nay” để rồi lòe bịp đồng loại lãng quên không nhìn thẳng vào cái hiện tại, một hiện tại đầy bất công, dối trá…

Thiên Chúa là Đấng của hôm nay : Với Thiên Chúa, cái hiện tại là cái quan trọng nhất, là cái có tính quyết định. Trước đây ngươi sống công chính mà bây giờ ngươi làm điều gian ác thì ngươi phải chết. Người tội lỗi xưa làm nhiều sự gian ác mà bây giờ bỏ điều dữ, làm điều chính trực công minh thì sẽ được sống. Ngôn sứ Êdêkien minh nhiên nói thay Thiên Chúa sự thật này ( x. Ed 18,27-28 ).

Đến trần gian, Chúa Kitô thường cảnh tỉnh nhiều vị lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, những người vốn tự hào về công nghiệp đã qua của mình. Khi kể câu chuyện về hai người con, Chúa Kitô đã làm nổi rõ cái giây phút hiện tại. Người con cả sở dĩ được chấp nhận dù trước đó không vâng lời Cha nhưng giờ này anh hối hận và vâng theo lời cha. Trái lại, người con thứ, trước đó đã mau mắn đáp vâng lời cha mà giờ này anh lại không làm theo ý cha thì cũng bằng không. Để khẳng định chân lý này Chúa Kitô còn nói với những Thượng tế và kỳ mục hôm ấy bằng một kiểu nói long trọng : “ Tôi bảo thật các ông : Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.” ( Mt 21,31-32 ). Một số nhà chú giải phân tích chữ “ trước” còn có nghĩa là “thay thế”, nghĩa là những người thu thuế va gái điếm sẽ thế cái chỗ của các vị Thượng tế và kỳ mục trong Nước Trời. Kết thúc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”, Chúa Kitô đã nêu bật lời của người cha với đứa con cả :“ Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”( Lc 15, 32 ).

Sống mà không có ngày mai là một cuộc sống thiếu định hướng, thiếu tinh thần cầu tiến. Tuy nhiên cái của ngày mai phải được đặt nền tảng vững vàng trên cái của hôm nay. Nhiều khi chúng ta có thể quá lo lắng cho những sự chưa đến mà bỏ quên bổn phận trong hiện tại. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo…”( Mt 6,34 ). “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” ( Mt 6,11 ). “ Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa !” ( x. Tv 95,7-8 )

Đừng để đến ngày mai những gì tốt đẹp và phải đạo có thể làm trong ngày hôm nay : Xét về mặt tiêu cực, dưới nhãn quan đức công bằng thì nếu giam tiền công nhật của người làm công đến hôm sau là đã phạm lỗi bất công ( x.Lv 19,13 ). Còn trên bình diện đức ái thì nếu bỏ qua một việc tốt, một việc lành trong khả năng và hoàn cảnh của ta hôm nay thì đã phạm một điều tồi tệ, đó là tội thiếu sót mà chúng ta thường đấm ngực thú lỗi trong phần khởi đầu của Thánh Lễ : Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em : tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và những điều thiếu sót…”

Lúc sinh thời, mỗi khi gặp những người bệnh tật, dù đó là ngày Lễ nghỉ và theo luật Do Thái giáo bấy giờ thì không được phép, nhưng Chúa Giêsu vẫn ra tay thi ân giáng phúc bất chấp nhiều luật sĩ và biệt phái hậm hực chống đối và thậm chí còn tìm cách giết Người. Phải làm ngay hôm nay, lúc này, ở đây ( hic et nunc ) những điều chính đáng và phải đạo trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Bởi chưng, nhiều lúc, chính khi không làm điều thiện là làm điều ác, không cứu sống là giết chết, không bênh vực công lý là toa rập với bất công… ( x. Mc 3,4 ).

Những kẻ tự cao là nhưng người luôn nhớ và muốn kẻ khác nhớ mình đã làm một sự gì đó. Những người tự ti là những người không thể quên và nghĩ rằng người ta không thể quên mình đã lầm lỡ một sự gì đó. Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó ( mà không bao giờ làm ) ( Ngạn ngữ Pháp ). Những người hèn nhát là những người luôn khát khao một sự gì đó ( mà không dám làm ). Còn những người công chính là những người bắt tay làm ngay những sự phải làm, đáng làm, nên làm, hôm nay, lúc này.

RẤT CẦN CHO MỘT LẦN HOÁN CẢI
Mt 21, 28 – 32

Anmai, CSsR

Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe sao mà nó hay quá ! thiết thực quá ! và cũng rất đời thường quá. Câu chuyện trong trang Tin Mừng Chúa Giêsu kể hôm nay, thật sinh động, thiết thực và lôi cuốn người nghe. Thiết thực, sinh động, lôi cuốn nhất là với những bậc làm cha làm mẹ. Làm cha làm mẹ thì có cái quyền trên con cái của mình. Khi có quyền thì cha mẹ cũng có cái quyền sai khiến con mình mà đặc biệt là sai đi làm công việc nhà, công việc trong gia đình vì con cái phải đồng trách nhiệm trong gia đình của mình. Và sự thật, kết quả hết sức là buồn cười vì nó ngược lại với cái nghĩ, cái sự vâng lời từ ban đầu giữa hai người con.

Làm cha làm mẹ, ai ai cũng khó chịu với cái cách của người con thứ nhất : ban đầu bảo không đi nhưng rồi lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại : bảo đi nhưng lại không đi. Chuyện cũng hết sức là thường tình với bậc cha mẹ, đó là cha mẹ thích người con vâng lời hơn là người con không vâng lời. Vấn đề Chúa muốn nói lên trong câu chuyện này đó là thái độ, là tâm tình hoán cải của người con thứ nhất. 

Vấn đề hoán cải chúng ta được nghe rất rõ trong sách ngôn sứ Edêkien : “ Đây Chúa phán: Các ngươi đã nói rằng : 'Đường lối của Chúa không chính trực'. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây : Có phải đường lối của Ta không chính trực ư ? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết". 

Vậy thì ai là người cần hoán cải ? Những người sống tốt, sống công chính thì chẳng cần phải hoán cải. Chỉ những ai phạm tội, những ai vấp ngã, những ai yếu đuối thì mới cần hoán cải để được sống.

Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Chắc có lẽ, không ai trong chúng ta dám nhận rằng mình là người hoàn thiện, là người công chính. Trái lại trong chúng ta, ai cũng rất cần được một lần hoán cải để nhận được sự sống, ơn cứu độ từ Thiên Chúa.

Thật buồn cười ! Bao nhiêu lần xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến anh chị em đồng loại, chúng ta cảm thấy xấu hổ, chúng ta cảm thấy ăn năn thống hối và quyết chừa cải, nhưng rồi con người yếu đuối chúng ta lại vấp ngã. Như Thánh Phaolô đã trải lòng ra cho chúng ta : “Điều tôi biết là tốt thì tôi lại không làm, điều tôi biết là xấu thì tôi lại cứ làm !”. Trong thâm tâm của chúng ta luôn luôn có sự giằng co giữa điều thiện và điều ác. Chẳng ai trong chúng ta muốn phạm tội, chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều ác cả, nhưng sao mà ác quỷ nó cứ thúc đẩy chúng ta. 

Chúng ta nhớ, trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại đấy, con người phạm nhiều tội lắm nhưng mà Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta hai thứ tội căn bản, hai loại người mà xã hội Do Thái thường hay kết án đó là gái điếm và thu thuế !

Chẳng cần phải định nghĩa, ai ai trong chúng ta cũng biết bản chất của gái điếm là gì rồi ! Có thể, chẳng ai muốn làm điếm cả nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy, vì yếu đuối nên mới làm cái nghề nhục nhã này. Biết là tội đấy nhưng hình như không còn lối thoát, không còn cách nào khác để rồi phải chấp nhận sống trong cái tội đáng chê đáng ghét này.

Thu thuế ! Nói đến chuyện thuế má thì ở thời đại nào cũng không mấy ai thích đóng thuế cả. Thoạt đầu, thuế chính là trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trên đất nước mình sống, nhưng chính trong cái cách thu thuế, nộp thuế không minh bạch sao ấy, đã để lại trong mắt mọi người cái nhìn không thiện cảm về người thu thuế, nào là tham lam, gian dối, và thu vén thật nhiều cho riêng mình v.v…

Chúa Giêsu nói với thượng tế và kỳ lão đấy nhưng thật sự Chúa đang nói với mỗi người chúng ta : “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa Giêsu muốn nói lên rằng những người gái điếm và thu thuế đó sẽ vào Nước Thiên Chúa trước chúng ta vì sao ? Vì họ biết hoán cải.

Trở lại vấn đề, tất cả nó nằm ở chính sự hoán cải. Dù tội lỗi như thế nào, xấu xa kinh khủng như hai hạng người tệ hại nhất mà người Do Thái lên án và ghét bỏ đi chăng nữa nhưng biết hoán cải thì cũng sẽ được cứu. Tệ hại nhất như đứa con ban đầu thoạt nghe là bất hiếu, là không vâng lời đi chăng nữa nhưng sau đó biết hoán cải thì cũng sẽ làm hài lòng người cha của mình hơn.

Hoán cải ! Nói thì dễ nhưng thật sự nó không phải là hành vi đơn giản, dễ dàng. Mấy ai trong chúng ta đã hoán cải dù biết rằng mình cần phải hoán cải để được cứu. Lý do : Muốn hoán cải thì điều kiện cương quyết, điều kiện căn cốt nhất đó chính là thái độ phải nhìn ra chính mình, nhìn thẳng vào cái tôi của mình nhưng điều này thật khó làm trong tiến trình hoán cải.

Trước hết, ai ai cũng bảo thủ, ai ai cũng muốn bảo vệ cái danh dự của mình, không muốn cho ai biết cái xấu, cái khuyết điểm của mình thì làm sao mà hoán cải được. Điều này rất khó vì ai ai cũng mang trong mình một cái vỏ bọc bề ngoài rất kiên cố và sợ người khác biết được cái vỏ bọc bên trong của mình, sợ xấu hổ.

Kế đến là mình có nhận ra đó là điều xấu, đó là điều dở cần phải khắc phục hay không ? Điều này cần phải được huấn luyện, được giáo dục để có một lương tâm ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một lương tâm đích thực. Một người nào đó sống trong một lương tâm mù quáng thì không thể nào nhận ra những lầm lỗi của mình cả.

Muốn có được được những điều ấy, muốn thực hành một cuộc hoán cải cuộc đời mình thì điều kiện cần thiết nhất mà mỗi người chúng ta phải có đó chính là thái độ khiêm nhường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì càng dễ hoán cải bấy nhiêu. Mà thực tế, chúng ta thấy những người kiêu ngạo thì khó có thể thay đổi con người mà thậm chí càng ngày càng lún sâu trong tội mà người kiêu ngạo đã phạm.

Nói về sự khiêm nhường, Thánh Phaolô đã nhắc cho chúng ta trong đoạn thư gửi giáo đoàn Philipphê mà cộng đoàn chúng ta vừa nghe : “Anh em chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”. 

Trong Đức Kitô như thế nào ? Xin thưa : “Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.

Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào gương Đức Giêsu và sống như Đức Giêsu đã sống. Ngài nói, Ngài dạy chúng ta nhưng chính Ngài đã sống : “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô”. “Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá” (1 Cr 2,2).

Nếu chúng ta mặc lấy trong mình sự khiêm hạ thì chúng ta sẽ dễ dàng hoán cải đời mình, nếu chúng ta kiêu căng thì không bao giờ sửa mình được.

Phận người chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là yếu đuối, biết bao nhiêu là đổ vỡ nên cần lắm sự hoán cải. Nếu không hoán cải thì những người sống chung quanh chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta sẽ rất vất vả vì chúng ta, thế nên chúng ta rất cần đến ơn hoán cải nơi mỗi người chúng ta. 

Ít nhiều trong chúng ta vẫn thường cư xử với với Chúa, với anh chị em đồng loại mà gần nhất là với cha, với mẹ, với chồng, với con, với thành viên trong cộng đoàn chúng ta theo kiểu người con thứ hai là bề ngoài thì dạ dạ vâng vâng đấy nhưng thực chất thì chẳng bao giờ thì hành cái lời dạ dạ vâng vâng. Ước gì chúng ta nhìn lại hình ảnh của người con đầu là dù bề ngoài có khó chịu, có không vâng phục nhưng sau đó hồi tâm, hoán cải và thi hành điều Chúa, điều mà cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em đồng loại muốn nơi chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã vâng phục và vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá giúp chúng ta sống tâm tình khiêm nhường sâu thẳm để chúng ta hoán cải cuộc đời chúng ta hầu mong sau cõi tạm này, chúng ta được cứu như những cô gái điếm và những người thu thuế biết hoán cải và được Chúa hứa Nước Trời như vậy. Amen.

LỜI NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM
Mt 21, 28 – 32

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Người đời thường đàm tiếu với nhau: ” Lời nói phải đi đôi với việc làm “, mới là người tốt, còn ngôn hành bất nhất, người đó không đáng tin tưởng. Tin MừngMt 21, 29-32 nói đến hình ảnh hai người con, hai cách nói và hai hành động hoàn toàn khác nhau. Chúa là Đàng, là Sự thật và là Sự sống. Ngài luôn luôn nói và hành động. Do đó, chúng ta là con của Ngài, chúng ta cũng phải nói và làm như Ngài…

Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “ Người cha sai con đi làm vườn nho “. Người con thứ hai nghe lời cha, nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất, từ chối, nhưng sau suy nghĩ, hối hận, rồi đi làm. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh và ám chỉ người con thứ hai là những Biệt phái, Kinh sư, thượng tế, Kỳ mục là những hạng người miệng thì thơn thớt nói cười, miệng thì ngon ngọt truyền lệnh và cho rằng mình đạo đức,thánh thiện, giữ luật tỉ mỉ, nhưng kỳ thực họ chỉ hô hào to miệng, họ chỉ nói trên môi miệng, nhưng kỳ thực họ không hề giữ một luật lệ nào, trái lại họ chất trên vai người khác các gánh nặng, còn họ thì không hề đụng tay lay thử xem gánh có nặng hay nhẹ. Điều đáng kinh tởm là họ tự kiêu, tự đại, tự mãn không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế.

Còn người thứ nhất là những người tội lỗi, yếu hèn, những kẻ thấp cổ bé họng, những cô gái điếm, những người thu thuế. Những người này bị nhóm Pharisêu, Kinh sư, Thượng tế, Kỳ mục và xã hội lúc đó ghép vào hạng tội lỗi công khai và bị họ loại trừ ra khỏi các hội đường, và xếp bên lề xã hội. Tuy nhiên, những người này đã biết thành tâm sám hối, đã biết cải tà quy chánh, đã biết hối cải, đổi mới, đã tin vào Chúa Giêsu là Vị cứu tinh, là Đấng cứu độ, là khiên mộc, thuẫn đỡ cho họ. Nên, họ đã được Chúa yêu thương, tha thứ và hứa ban Nước trời cho họ ( Mt 21, 31 ).

Cuộc đời là một cuộc hành trình đức tin. Sở dĩ, Nước trời được hứa ban cho các người bé mọn, những người có lòng tin bởi vì họ tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế. Đức tin của những người tin vào Chúa được thể hiện qua đức bác ái, qua những việc làm tỏa sáng, qua việc lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời mình. Những người này đã sống các Mối Phúc, đã leo lên, vượt qua từng nấc thang của các Mối Phúc. Họ không chỉ nói ngoài miệng, nhưng lời nói của họ đi đôi với việc làm. Thánh Giacôbê quả thực có lý khi viết :” Đức tin không có việc làm là đức tin chết “ ( Gc 2, 26 ). Chân Phước Gioan Phaolô đã nói: ” Ngày nay người ta tin những chứng nhân hơn những người chỉ nói “. Gương đời sống đức tin sống động có giá trị hơn nhiều bài thuyết giảng trơn tru nhưng chỉ là lý thuyết suông. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy bao giờ Ngài cũng hành động đi đôi với lời nói. Ngài giảng dạy, chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, Ngài thực tế, nuôi sống dân chúng theo Ngài nghe Ngài giảng dạy và họ đang khát, đang đói. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy tránh xa những người Pharisêu, Biệt phái giả hình. Họ nói mà không làm. Họ hô mà không thực hiện. 

Cuộc đời của người môn đệ Chúa là chết đi cho tội và sống lại trong đời sống mới. Qua phép rửa, người Kitô hữu đã thật sự chết đi cho tội và đã thật sự sống lại với Chúa. Qua Bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu tuyên xưng: “ Chúa Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ tới với nhân loại một lần nữa vào ngày chung thẩm “. Nhờ làm con Chúa qua Bí tích rửa tội và được nuôi sống bằng chính Mình Máu của Chúa, người Kitô hữu luôn có sức mạnh để vượt thắng tội lỗi và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vững bước trên cuộc hành trình đức tin tiến về Quê trời.

Chúa đã luôn cảnh tỉnh mọi người rằng: “ Mẹ và anh em của Ngài là những người biết lắng nghe và tuân giữ Lời của Ngài “ và Ngài cũng cảnh cáo: ” Không mọi kẻ nói với Ta; Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Ta “ ( Mt 7, 21 ).

Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả. Xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi “. Amen. ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật 26 thường niên, năm A ).

NÓI và LÀM
Mt 21, 28 – 32

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu đã rao giảng Nước Thiên Chúa, Ngài muốn biến trần gian trở nên Nước Trời. Chính vì thế, Ngài đã mời gọi các tông đồ, các môn đệ đi theo Ngài để Ngài giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Trời. Chúa muốn qui tụ, cứu độ mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, biến trần gian, thế giới trở nên Nước Thiên Chúa thì người ấy thuộc về Chúa, và là con cái của Ngài.

Hôm nay, Chúa Giêsu đem ra một dụ ngôn nữa để dạy dỗ các người Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái, đồng thời cũng nói lên quan điểm, lập trường của Ngài về những người được cứu rỗi. 

Dụ ngôn này, được Chúa Giêsu đặt vấn đề theo thể văn đối thoại, đòi những người nghe phải trả lời, để một đàng gây chú ý hào hứng, vừa dễ dàng đánh đổ đối phương bằng phương pháp dĩ độc trị độc, gậy ông đập lưng ông ( Mt 21, 31 ). Điều này, trong Cựu Ước, chúng ta đã đọc thấy nơi sách 2 Samuen chương 12, 1-14. Thực tế, hai người con, chúng ta đã đọc thấy trong dụ ngôn ‘ người con hoang đàng ‘, ở đây được hiểu là dân Do Thái và dân ngoại giáo, tuy nhiên trong dụ ngôn này được hiểu về các thượng tế, luật sĩ, biệt phái, các người thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Tất cả đều bình đẳng trước Thiên Chúa và cùng được Chúa yêu thương mời gọi làm vườn nho cho Chúa. Giả sử, có sự phân biệt, bất bình đẳng bởi vì công việc của mỗi người sẽ làm đối với Lời Chúa mà thôi. 

Tin Mừng cho hay người con thứ nhất, Cha bảo nó đi làm, nó nói không đi nhưng sau hối hận, nghĩ lại rồi đi. Người con thứ nhất tượng trưng cho những người tội lỗi, lúc ban đầu đã không đi vào con đường ngay chính, con đường thật, sau hối cải, ân hận đi vào con đường ngay chính. Người con thứ vâng dạ ‘nói đi’, nhưng lại không đi. Người con này ám chỉ các chức sắc Do thái lúc đó, lúc đầu họ luôn trung thành vâng theo và đi vào con đường Cựu Ước. Nay, những lời cựu Ước được thực hiện thì họ lại không đi vào. 

Điều quan trọng dụ ngôn này muốn dạy chúng ta là Hành Động, chứ không chỉ Nói suông. Làm chứ không chỉ Nói. Và như vậy, người con thứ nhất đã đạt được yêu cầu. Thánh Matthêu trong dụ ngôn này còn cho hay hai hạng người thu thuế và gái điếm, đều là những con người tội lỗi nhưng họ đều vào được Nước Trời vì họ đã hoán cải và tin. Tin Mừng cũng nói đến kẻ trước người sau không chỉ theo nghĩa thời gian nhưng còn là thay thế chiếm chỗ vv…Thánh Gioan Tẩy Giả vừa là người công chính, vừa là người thi hành sứ vụ giúp con người, loài người, nhân loại dọn lòng đón Đấng công chính. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi mọi người hoán cải vì Nước Chúa đã gần đến. Ngài đã cương quyết, mạnh mẽ cảnh giác những người biệt phái và bè Xađôc, nhưng họ đã không nghe ngài và cũng không chịu để ngài thanh tẩy.

Chúa Giêsu đã rất gắt gao với những người coi mình là đạo đức, thánh thiện, công chính bằng việc họ nói mà không làm. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư. Họ nói nhiều, giả hình, giả bộ, đạo mạo bề người, nhưng trong lòng đầy gian tà, đúng như Chúa nói :’ mồ mả tô vôi ’. Điều này cũng đang đúng với nhân loại ngày nay, khi mà có rất nhiều người nói một đàng làm một nẻo. Có những người chỉ mang danh Kitô nhưng thực ra họ không nghe, không thực thi Lời của Chúa. Chúa Giêsu đã có lần nói:” Không phải những ai nói’ lạy Chúa, lạy Chúa ‘ là được vào Nước Trời nhưng họ còn phải thực thi Lời Chúa ‘ ( Mt 7, 21 ). Chúa luôn nói với chúng ta : Hôm nay con đi làm vườn nho cho Ta… Đừng cứng lòng ( Tv 94, 7-8 ).

Xin mượn lời của Viện phụ Grégoire Zufferey để kết luận bài chia sẻ sáng nay :” Chỉ có người duy nhất nói tiếng vâng bằng miệng và nói cùng một tiếng vâng ấy bằng hành động của mình, bằng những cái nhìn của mình, bằng những tương quan luôn thấm đẫm sự thật và lòng tế nhị, bằng những lúc thinh lặng, bằng cả con người mình…Chỉ có một người duy nhất nói tiếng vâng bằng lời nói và việc làm của mình:đó là Đức Giêsu Kitô. 
Người thưa : vâng, thưa Cha, con sẽ đi làm việc trong vườn nho của Cha dưới đất.Bằng cuộc nhập thể của Người, bằng cuộc sống và cái chết và sự phục sinh của Người, hành động của Người như là một tiếng xin vâng thường trực đối với ý Cha của Người.Về phần chúng ta, chúng ta thưa vâng với mệnh lệnh thánh hóa ngày Chúa nhật, ngày của Chúa…Đôi tay chúng ta tự động chắp lại để cầu nguyện, đôi tay chúng ta, trong Thánh Lễ, đưa ra để trao hay nhận một cử chỉ chào bình an. Nhưng hãy coi chừng, qua những cử chỉ ấy, chúng ta cam kết từ chối bo bo giữ lại của cải hay đặc ân nào đó. Những cử chỉ ấy nhắc cho ta nhớ rằng không thể từ chối đưa tay ra giúp đỡ bất cứ người nào !Để sống có thủy có chung, phải là những bàn tay biết phát minh những cách chia sẻ, những bàn tay chịu đi tới chỗ dính đồ dơ bẩn, mà chính nhờ vậy mà được giữ gìn trong trắng “.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết Chúa yêu thương chúng con bằng một tình yêu cao vời vô giá. Chúa yêu chúng con bằng tất cả con người của Chúa. Mỗi người chúng con không chỉ là một con số, nhưng tất cả chúng con đều có chỗ trong trái tim yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui, đem ơn cứu độ đến cho người khác,bởi vì ơn cứu độ của Chúa trải rộng đến mọi người.Amen.

HÀNH ĐỘNG TỐT THẮNG CÂU NÓI HAY
Mt 21, 28 – 32

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa. 

Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt - xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt! 

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt - xấu; thật - giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không. 

1. Ý Nghĩa dụ ngôn

Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “... tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).

Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.

Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi. 

Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực. 

Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ! 

Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.

Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). 

Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không? 

2. Thật giả vẫn luôn tồn tại

Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả. 

Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta! 

“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm. 

Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ! 

Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi... Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.

Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.

Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).

Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.

Thật vậy, chúng ta có thể "lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được". Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”. 

3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng. 

Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).

Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).

Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen. 

HỐI LỖI
Mt 21, 28 – 32

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Kinh Thánh là một kho tàng vô giá bảo toàn tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải về sự khôn ngoan, các giá trị về đức tin, luân lý đạo đức và ân sủng cứu độ. Thiên Chúa đã chọn gọi các tổ phụ, cha ông, các tiên tri, tư tế và thầy dậy để ban truyền huấn lệnh và đường lối chính trực. Toàn bộ Kinh Thánh được hình thành trải qua cả ngàn năm tỏ bày sự khôn ngoan thương trí của Thiên Chúa. Các ngôn sứ và đặc biệt một số tác giả của sách Huấn Ca, sách Khôn Ngoan, Châm Ngôn và Thánh Vịnh… đã chia sẻ những trải nghiệm sống đức tin qua các biến cố thời đại. Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu xuống trần đi rao giảng, Ngài đã khai mở một kho tàng ân sủng và con đường chính thật dẫn vào Nước trời. Trong tất cả các sách vở suy niệm, giảng giải, chia sẻ và các giáo huấn luôn nói lên những lời lẽ tích cực tốt đẹp, khuyên dạy và hướng thiện. Sứ mệnh rao giảng là mời gọi mọi người ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, nên gương tốt lành, làm việc siêng năng, cư xử hiền hòa, trau dồi nhân đức và thực hành bác ái yêu thương.

Tiên tri Ezekiel khuyến khích dân chúng hối lỗi để tìm về nguồn sống: Nếu kẻ gian ác, bỏ đường gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống (Ez 18, 27). Ngay từ thuở ban đầu mới tạo dựng, sự ác đã len lỏi vào lòng trí của loài người. Tổ tiên Adong và Evà đã bị sa vào cạm bẫy chiều theo ma quỉ và Cain cũng sa đà phạm tội giết em. Satan cứ rảo quanh tìm mồi để cắn xé. Con người yếu đuối dễ bị hướng chiều về đàng dữ. Chúng ta đang sống giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn. Có nhiều người đang tiếp tay với ma quỉ để mở đường dẫn lối nhiều người đi xa lạc. Sự hướng dẫn của một số nhà lãnh đạo đã bị biến chất và tha hóa. Một số thầy dậy bị lôi kéo theo những thị hiếu của con người thời đại. Nhiều nhà lãnh đạo không còn giữ lập trường kiên định trong vấn đề luân lý đạo đức. Phần lớn thế hệ trẻ ngày nay nhìn vấn đề cuộc sống rất tương đối và tự do trong nhiều lãnh vực. Sự tốt sự xấu cận kề khó phân biệt. Những giới điều tôn giáo dần dần bị loại ra khỏi nơi công cộng hay trường lớp. Rất nhiều người không có định hướng cho lý tưởng sống, nhưng chỉ sống vui thỏa qua ngày.

Canh tân sửa đổi đời sống không phải luôn luôn dễ dàng. Trước hết, tự vấn là chúng ta có muốn cải thiện đời sống nên tốt lành thánh thiện hay không? Chúng ta có thể cậy dựa vào đâu để tìm một nguyên lý căn bản chính thật cho lý tưởng sống? Trong xã hội loài người, có rất nhiều niềm tin, ý thức hệ và quan niệm sống khác nhau. Vả nữa, nơi nhiều dân nước, chế độ, xã hội và tôn giáo có những chủ trương thực hành đạo lý khác biệt. Về tiêu chuẩn đạo đức luân lý cũng khó phân biệt. Một vấn đề đối với người này có thể là xấu, nhưng với người khác lại là hợp lý và tốt lành. Tùy theo cách nhìn vấn đề ở khía cạnh khách quan hay chủ quan và về khuynh hướng chính trị, xã hội, thương mại, tôn giáo, đạo đức và luân lý nhân bản. Chúng ta phải tìm về nguồn sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tỏ bày. Chúa đã mạc khải con đường hướng thiện qua chính Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống.

Giáo Hội dùng mọi cách trong mọi thời để nhắc nhở, khuyến khích và mời gọi mọi người hối lỗi bỏ đường gian tà mà trở về với Thiên Chúa. Từ xa xưa, tiên tri Ezekiel đã mở lối cho những người lầm lạc: Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống, chớ không phải chết (Ez 18, 28). Tiên tri nói đến sự sống viên mãn nơi quê trời, nơi niết bàn và là nơi an hưởng hạnh phúc. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự yếu đuối, sa ngã và phạm tội. Thú thật, trong đời sống có một sự hấp dẫn vô hình nào đó kéo lôi chúng ta trì trệ trong vũng lầy của tội lỗi. Lạ một điều, dù biết là tội, biết là lỗi, nhưng chúng ta không muốn hối cải, tránh xa, trút bỏ, từ bỏ hay xưng thú. Đôi khi, chúng ta cứ khất lần để phạm thêm tội cho nhiều, rồi mới đi xưng tội. Hình ảnh thí dụ: Khi chúng ta có chiếc áo trắng mới tinh, một vết dơ nhỏ, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu và muốn giặt sạch ngay. Khi áo đã cũ và ngả mầu, chúng ta không màng nữa, dơ cho dơ luôn. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy ăn năn hối cải và sửa đổi đời sống, vì chúng ta không biết ngày giờ sẽ đến. Sự hối lỗi trở về không bao giờ trễ.

Câu truyện về hai người anh em được cha sai đi làm vườn nho trong bài Phúc Âm hôm nay, giúp chúng ta suy gẫm về cuộc sống đạo của mình. Thường khi chúng ta hay có những phản ứng tiêu cực nhất thời khi chưa kịp nghĩ suy như cãi lời, phản ứng gay gắt, chối từ và phủ nhận. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, chúng ta có những đáp trả tích cực hơn. Trong câu truyện, người cha muốn con đi làm vườn nho: Nó thưa lại rằng: Con không đi. Nhưng sau đó hối hận và đi làm (Mt 21, 29). Chúng ta không lấy làm lạ về cách hành xử thường ngày này. Già trẻ lớn bé, ai cũng vướng phải. Trải qua kinh nghiệm trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta cần có sự kiên nhẫn và tâm tình quảng đại trong việc đối xử với nhau. Vì ai cũng có khả năng để thay đổi nên tốt hơn. Miễn là cho mỗi người một cơ hội.

Lồng trong câu truyện của hai anh em, Chúa Giêsu nhìn rõ hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Có nhiều người nghĩ mình tốt lành và thánh thiện, nên không cần hồi tâm xét mình. Do đó, một số người đã đánh mất cơ hội cho chính mình. Họ hay liếc mắt hướng về người khác, giơ tay chỉ trích phê bình anh em, khó chịu với cách buông thả và khinh khi lối sống của những người đang bị lầm lạc. Chúa Giêsu lên tiếng: Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông (Mt 21, 31). Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu làm chúng ta phải giật mình. Chúa nhìn thấu tâm can và lòng thành của mỗi người. Chúa ban cho ai nhiều, Chúa sẽ đòi hỏi lại nhiều. Chúa đã ưu đãi ban cho muôn vàn ân sủng và cơ hội để đổi mới, nhưng chúng ta lại cứ chứng nào tật ấy mà dậm chân tại chỗ. Thật ra, chúng ta không cần chờ đợi tới ngày mai, ngay lúc này đây, hãy dùng đôi phút xét mình, đấm ngực mình, hối lỗi, tìm cách sửa lỗi và xin ơn tha thứ.

Từ khi trở về cùng Chúa, thánh Phaolô rất nhiệt tâm thay đổi lối sống của chính mình và viết thơ khuyên bảo nhiều anh chị em: Chớ làm điều gì bởi cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình (Phil 2, 3). Có nhiều gương mù gương xấu đã xảy ra giữa các cộng đoàn dân Chúa. Cũng chỉ vì cái hư danh hão huyền mà gây xung đội. Sự cạnh tranh giữa các tín hữu đã xảy ra ngay từ khi thiết lập những cộng đoàn đức tin đầu tiên. Các tín hữu không tránh khỏi những thói tục trần thế. Vì Nước Trời giống như mẻ cá bắt được mọi thứ cá, lớn bé và tốt xấu. Giáo Hội là một cộng đoàn tín hữu, cần có hoàn cảnh và môi trường tốt lành để mọi người được học hỏi trau dồi nhân đức. Khiêm nhường là nhân đức căn bản giúp chúng ta học biết chính mình và tha nhân.

Thánh Phaolô đã viết 12 lá thơ gởi cho các cá nhân và các giáo đoàn. Ngài đã dùng nhiều cách để diễn tả tâm tình, đôi khi vì quá nhiệt tâm, đã dùng những lời lẽ cứng rắn, sửa đổi gay gắt, khiển trách nặng nề và trách mắng chua cay. Cũng có lúc tâm tình rất nhẹ nhàng yêu thương. Trong thơ gởi cho tín hữu Corintô, Ngài viết: Anh em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi không làm hại ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp và không bóc lột ai (2Cor 7, 2). Nhiều khi những lời giáo huấn chân thật của Giáo hội và các chủ chăn cũng làm cho chúng ta cảm thấy chướng tai khó chịu. Tự hỏi: Tại sao chúng ta phải sám hối, phải ăn năn hối cải, phải hy sinh và phải đi vào con đường hẹp? Chúng ta nên nhớ rằng lời khuyên dậy của Giáo Hội luôn vì phần rỗi của chúng ta mà thôi.

Lạy Chúa, Chúa đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 8). Xin cho chúng con kiên trì dõi theo lối bước của Chúa để tìm về nguồn hoan lạc đời đời.

Nguồn vietcatholic.org

1125    24-09-2014 15:16:52