Sidebar

Thứ Bảy
27.04.2024

Chúa Nhật XXV Thường Niên A năm 2014

  1. Đấng Nhân Lành
  2. Lòng Nhân Từ
  3. Công Bằng Hay Là Lòng Thương Xót?
  4. Ông Chủ Quảng Đại
  5. Biết Ơn Chúa
  6. Khiêm Tốn Và Vâng Phục
  7. Chúa Nhật Hai Mươi Lăm Thường Niên
  8. Quảng Đại
  9. Chúa Quá Nhân Từ
  10. Dụ Ngôn Làm Vườn Nho
  11. Dụ Ngôn Thợ Làm Vườn Nho
  12. Thiên Chúa Có Bất Công?
  13. Ghen Tỵ
  14. Lòng Nhân Hậu
  15. Thiên Chúa Nhân Lành và Công Bằng
  16. Bằng Lòng Với Của Chúa Ban
  17. Ghen Tỵ
  18. Ganh Tỵ, Căn Bệnh Mãn Tính Của Con Người.
  19. Tình Yêu, Tiêu Chuẩn Của Thiên Chúa
  20. Thiên Chúa Quảng Đại Bao Dung
  21. Cao Cả Hơn Lòng Chúng Ta
  22. Tất Cả Đều Lãnh Mỗi Người Một Đồng
  23. Phải Chăng Thiên Chúa Quá Bất Công?

 

 

ĐẤNG NHÂN LÀNH
Mt 20, 1 - 16

“Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”(Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.

Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm “tiền trao cháo múc”, “bánh ít đi bánh qui mới lại”, công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.

Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)

Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài : thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?

Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.

Lạy Chúa giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.

LÒNG NHÂN TỪ
Mt 20, 1 - 16

Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích Tấm và Cám nói lên điều đó.

Trong một gia đình, đôi vợ chồng trẻ có được một người con gái xinh đẹp, nhưng người vợ không may mất sớm. Người chồng kết hôn với một người đàn bà khác, bà ta cũng có một người con gái. Tưởng rằng con mình có người để chơi đùa vui vẻ, nhưng không ngờ, những ngày gian khổ đến với tuổi thơ quá sớm. Người cha lo bận rộn công việc bên ngoài không biết con mình cực khổ như thế nào. Còn đứa con thì không dám nói điều gì: trước hết vì thương cha, không muốn cho cha phải lo lắng, đồng thời cô cũng bị hai mẹ con của nhà kia răn đe, nếu cho cha biết, họ sẽ hành hạ trả thù.

Việc gì đến cũng phải đến. Sự ích kỷ, lòng ghen tỵ thì lãnh phần của sự ích kỷ ghen tỵ. Sự nhẫn nại ngay thẳng thì được phần thưởng xứng đáng với những gì đã làm. Hai người làm điều ác hại người thì lãnh phần những gì mình gây ra. Còn người con gái nhân hậu thì lãnh phần thưởng xứng đáng của lòng nhân hậu.

“Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về”.

Những người đã thoả thuận, nhưng giờ đây họ muốn hơn những gì mình thoả thuận, họ muốn hơn những gì mình đáng được. Họ nhìn vào người khác và họ tự cho mình có công hơn người khác. Họ nhìn vào những gì người khác được, nên họ muốn mình phải hơn những gì người khác có, vì họ cho mình có quyền như thế. Khi họ không được những gì mình muốn, họ tự cho mình quyền phê bình, chỉ trích, phán đoán người khác, ngay cả người có quyền trên họ mà họ cũng không hay biết. Khi đó họ chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, đòi hỏi lợi lộc riêng tư cho mình mà không cần biết đến người khác như thế nào. Họ phê bình người khác không công bình theo như họ muốn. Những gì họ thoả thuận, họ không còn biết đến. Họ muốn hơn cái mình đáng được, họ cũng muốn mình được hơn những gì người khác được, mà không cần biết mình có xứng đáng hay không.

“Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về. Hay mắt bạn ghen tỵ vì tôi nhân lành chăng?”

Lời phiền trách của ông chủ trong dụ ngôn đối với những người ghen tỵ, cũng là lời phiền trách chung cho mọi người của mọi thời đại. Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ vẫn tồn tại mãi trong con người, cả chúng ta nữa cũng không bị loại trừ ra cái thường tình của con người như thế.

Mỗi người trong chúng ta tự nhìn vào chính mình, nhìn qua những gì mình đã được, những gì chưa được mà đang ước muốn, nhìn vào cả những thực tại mà mình đang toan tính để đạt được. Có những điều mà mình quyết tâm đạt cho được những lợi nhuận, danh dự, những điều để thoả mãn tính tự phụ, nên dùng mọi thủ đoạn, mọi hành vi bất chính để đạt kết quả. Những lúc đó chúng ta có nói đến sự công bình trong cuộc sống không? Hay chúng ta không dám nói đến. Những lúc nhìn thấy người khác thành công mà mình thất bại, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực mình. Càng khó chịu hơn khi thấy người khác không đạo đức, không tài năng, không có công trạng bằng mình, mà họ lại được ưu đãi hơn thì không thể nào chấp nhận được. Những lúc đó nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ và nhìn lại để đừng thốt nên những lời kêu ca phiền trách, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta phiền trách thì coi chừng sẽ nhận được lời nói cứng rắng như trong dụ ngôn: “Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy nhận phần của bạn mà đi về”.

Những lúc chúng ta nhận được hồng ân Chúa, được thành công, đươc niềm vui bất ngờ, nếu chúng ta cảm nhận được mà biết tạ ơn Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra được con người của chính mình không đáng là chi với những hồng ân Chúa ban, thì chắc là trong cuộc đời chúng ta không bao giờ dám kèo nài, trả giá và phiền trách Thiên Chúa của chúng ta được. Những lúc chúng ta không đạt được những gì như ý muốn, nếu chúng ta biết nhìn lại để cố gắng hơn với tất cả lòng chân thành, thì Thiên Chúa không bao giờ từ chối những gì phát xuất từ lòng chân thành.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.

CÔNG BẰNG HAY LÀ LÒNG THƯƠNG XÓT?
Mt 20, 1 - 16

Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào làm cho ông. Một chuyện khá lạ là: không phải tất cả thợ đều đuợc gọi vào làm ngay từ sáng sớm. Có nguời vào lúc giữa trưa; có người đến xế chiều mới vào làm, chỉ làm một giờ trước khi kẻng báo giờ nghỉ thôi. Vậy mà mọi người đều được lãnh như nhau: một đồng. Ta phải nói rõ: lương một ngày công của thợ là tương đương một đồng. Vậy nên những người làm ít giờ vừa khỏe lại có lợi, vì vẫn được một đồng. Còn nguời làm quần quật từ sớm cũng chỉ được như vậy. Do đó họ cằn nhằn cho là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ cắt nghĩa thế nào? Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Có hai hạng người chúng ta cần lưu ý:

* ông chủ mướn công thợ: Bài dụ ngôn cho thấy, ông chủ rất quan tâm chuyện kêu gọi thợ đến làm vườn nho cho mình. Rõ ràng từ sáng sớm, ông đã ra đón thợ, mời họ vào làm vườn nho cho ông. Ông đã thỏa thuận với họ lương một ngày công là một đồng. Sau đó, lúc trưa, lúc xế ông lại ra, và gặp ai ông cũng mời họ vào làm cho ông. Rồi lúc 5g chiều, ông lại ra nữa, cũng thấy có mấy người đứng không đó, không có công ăn việc làm. Ông ngạc nhiên hỏi: Sao các anh ở không nhưng cả ngày như vậy? Họ trả lời: vì không ai mướn chúng tôi cả. Nghe vậy ông lại mời họ vào làm cho ông, dù họ chỉ làm có một giờ mà thôi. Cuối cùng khi hết giờ làm việc, ông cho phát tiền công; mỗi người đều được một đồng như nhau. Chính vì chuyện trả tiền công đồng đều như thế mà ông chủ bị phàn nàn…

Ở đây ta lại nhận thấy việc này: điều ông chủ quan tâm không phải là công việc, mà là những người khốn khổ, những người thiếu sống. Rõ ràng ông chủ quan tâm họ, vì họ không có việc làm, và ông sợ họ không kiếm đuợc tiền hàng ngày, để nuôi sống gia đình họ. Chuyện gọi họ vào làm công cho ông, chỉ là cái cớ, để ông trợ giúp kẻ thất nghiệp không công ăn việc làm. Như vậy ông chủ vườn nho cư xữ theo lòng thương xót, không phải theo lối công bằng sòng phẳng ở đời….

* Các người làm công ganh tị: Như trên đã nói, vì ông chủ thương xót nguời thất nghiệp, nên đã trả công cho một đồng, bằng lương cả ngày công lao động; tuy họ chỉ làm có một giờ thôi. Lối cư xử đầy lòng thương xót này đã vấp phải lời dị nghị của những con người chỉ quen thứ công bằng gắt gao, vị kỷ, sẵn sàng loại trừ kẻ yếu thế, cô thân. Rõ ràng lòng thương xót của ông chủ vượt xa lẻ công bằng; nó không cần đong đo xem có tương xứng không, giữa cái cho và cái nhận, cũng không cần nhìn đến sự thiệt hơn, chỉ nghĩ đến sự khốn cùng của con người, để cứu giúp không so đo tính toán…

b/. Chúa Giêsu muốn nói gì qua dụ ngôn này? Dĩ nhiên, ông chủ ở đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa; các người làm công ganh tị, là hình ảnh các pharisêu, luật sĩ. Họ đang phẩn nộ vì Chúa quan tâm đến hạng thu thuế, gái điếm, dân ngoại, đó là những người bị họ liệt vào hạng tội lỗi; trong khi xem ra Chúa đánh giá các luật sĩ, biệt phái thấp quá… Qua dụ ngôn này, Chúa nhắc khéo họ như lời Thánh vịnh: “Chúa công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Thiên Chúa không phải là ông quan tòa thưởng phạt chính xác, cũng không phải ông chủ tính toán chi li, cũng không phải ông thầu trả lương sòng phẳng, mà Người là Thiên Chúa lấy tình thương mà đối xử với con cái. Con cái nào Chúa cũng thương, nhưng đứa con Chúa thương hơn chính là vì nó bệnh tật, yếu ớt, đần độn…Cha thương con vì đó là con của Cha, không vì con đã làm cho Cha điều này điều nọ. Đứa con bệnh hoạn tật nguyền, Cha lại yêu hơn… Dụ ngôn này là một mạc khải sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì “tình yêu thì vượt xa lẽ công bằng…”

Câu chuyện : Có một người giáo dân hỏi cha sở: Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa. Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu. Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: “Tôi không quên anh đâu; nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc.” Có phải anh muốn nói thế không?: - Anh giáo dân cười nói: “Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp khét tiếng, tội nào mà không có..” Cha sở nói: “Vậy rõ ràng anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Mỗi người kitô hữu chúng ta đều được Chúa mời gọi vào làm cùng chung một việc là: làm trong vườn nho của Chúa, vào các thời điểm khác nhau. Thực ra Chúa không cần ta làm nhiều hay ít; điều quan trọng là ta có sẵn lòng làm cho Chúa trong tin yêu, khiêm tốn, quảng đại không ganh tị, cộng tác với mọi người không?

ÔNG CHỦ QUẢNG ĐẠI
Mt 20, 1 - 16

“Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại”. Đó là cách cư xử bình thường của con người với nhau. Nói vắn gọn là công bằng và sòng phẳng. Đây là điều mà những người chủ cần biết quan tâm nhiều hơn với người của họ. Một người chủ sáng suốt và tài giỏi sẽ biết trả lương đúng với thực lực nhân viên của mình.

Với cái nhìn này, chúng ta sẽ thấy ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay thật lạ lùng. Trước nhất là thông thường việc đi kiếm người làm thì do người quản gia. Còn ở đây chính ông chủ lại đi kiếm người làm. Chẳng những ông đi kiếm một lần trong ngày mà nhiều lần.

Lạ thứ hai là cách trả lương của ông chủ. Ông chỉ giao kèo với những người được mướn từ những giờ đầu. Còn những người vào làm những giờ gần cuối ngày thì không. Đến khi trả lương, ông lại trả cho những người vào làm cuối ngày trở lên. Lạ nhất là tất cả mọi người đều được hưởng lương như nhau. Do đó họ mới phàn nàn: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." (Mt 20, 12). Nếu như với thời buổi hiện nay, chắc chắn những người làm này sẽ tổ chức đình công ngay.

Hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn này có lẽ chúng ta sẽ hiểu ngay Chúa Giêsu muốn nói về ai. Đó chính là Thiên Chúa của chúng ta. Không phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa mà chính Người đi tìm chúng ta. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con” (Dt 1, 1 – 2)

Ơn cứu độ mà chúng ta được nhận lãnh là ơn ban hoàn toàn nhưng không chứ chẳng phải do công sức của chúng ta. Vì thế, Thiên Chúa có toàn quyền ban phát tuỳ theo ý muốn của Người. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cho mọi người đều được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói: “Hãy vui với người vui và khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Cho nên lẽ ra khi thấy anh chị em cùng được hạnh phúc thì chúng ta phải vui lên chứ không được phân bì. Phần chúng ta khi cảm nhận được mình đang được hưởng những ân huệ nhưng không thì hãy biết sống tốt hơn nữa. Có như thế chúng ta mới thật sự là những đứa con có hiếu.

BIẾT ƠN CHÚA
Mt 20, 1 - 16

Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho”, nói về một ông chủ đi kêu thợ đến làm vườn nhà mình vào những giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau, từ kẻ nhập cuộc lúc 5 giờ chiều cho đến người làm từ 6 giờ sáng.

Nghe qua dụ ngôn, không ít người cảm thấy ưng ức: tại sao Chúa có vẻ thiên vị, quá nhân ái với người này và chỉ công bình với người kia? Giả như Chúa công bình với hết mọi người thì chắc là không ai thắc mắc. Mấy anh là full time thì trả cho lương full time; mấy anh làm part time thì cứ tính giờ trả tiền thì êm thôi. Với lại mấy anh làm nhiều giờ tất có kinh nghiệm hơn những người làm ít, cứ trả thêm cho người có nhiều experience một tí thì đâu có sinh so sánh ganh tị thế kia.

Lối cư xử của Chúa quả không giống ai! Chẳng trách gì có người không ưa Chúa, và rồi họ ghen ghét, vu cáo, sỉ nhục, đóng đinh, giết chết.

Nhưng phải chăng vì Chúa đã làm sai? Ngài phải bước theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người hay con người phải sống theo tinh thần và quyết định của Tạo Hoá? Phải chăng cái chết của Chúa là do Ngài làm trái ý người ta hay người ta đi xa đường lối của Thiên Chúa?

Một nhà tư tưởng đã trả lời: tại vì con người và cũng tại vì Chúa. Tại con người quá hẹp hòi ích kỷ và tại Chúa quá nhân ái từ tâm.

Vì hẹp hòi ích kỷ nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Bao xúc phạm nhân phẩm, tổn thương tình người, xào xáo phân ly cũng phát xuất từ tính chất ghen tuông, tiểu tâm và đố kỵ đó.

Kinh thánh ghi nhận không ít những tình trạng như thế. Các luật sĩ biệt phái đã bất bình uất ức khi thấy Chúa Giêsu ngồi ăn với những người thu thuế. Họ cũng càm ràm khó chịu khi thấy Chúa xử sự khoan dung với người phụ nữ tội lỗi nhất trong châu thành. Chưa hết, mười hai tông đồ thân tín của Đức Kitô cũng không tránh khỏi tâm địa con người. Bỏ tất cả mọi sự theo Chúa, bất chấp nắng mưa, cực nhọc, túng thiếu. Ăn ở với nhau rất đề huề. Bỗng, một người đàn bà đến xin cho hai ông Gioan và Giacôbê được ngồi hai bên tả hữu Chúa khi Ngài khải hoàn vinh quang.

Thế là sinh chuyện. Mười ông còn lại phẫn uất với anh em con nhà Giêbêđê khiến Chúa Giêsu phải ra tay can thiệp, dạy các ông bài học khiêm nhường, yêu thương, và quên mình vì người khác.

Dụ ngôn “Người Con Hoang Đàng” cũng là một minh họa cho bản chất ích kỷ nơi con người. Đức em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, giao du với đàng điếm, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm. Nó đi bụi đời, sống chết mặc nó! Đời mình cứ êm trôi.

Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh phẫn uất. Nỗi bất bình gia tăng đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Anh tuyên bố: “Thằng con của ông”. “Ông” chứ không phải “cha”, “con của ông” chứ chẳng còn “em của tôi” nữa. Tình người bị cắt đứt.

Khi tình người bị cắt đứt, người ta đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau: lo cho nhau khi gặp rủi ro, mừng với nhau khi được may mắn. Thiếu tình người nên kẻ làm vườn từ sáng sớm không sao hình dung được hoàn cảnh thê lương của người thất nghiệp hay thiếu việc.

Không hiểu được tâm trạng lo lắng của người phải kiếm miếng ăn cho vợ con. Không chia sẽ được niềm vui của những gia đình có bữa cơm chiều hân hoan đầm ấm.

Nhưng tại sao người ta lại thiếu “tình người” như thế? Thiết tưởng, câu trả lời đúng nhất là vì họ vô ơn, không nhận ra được tình Chúa. Như trong bài Phúc âm tuần trước, vì không rung cảm sâu xa tình thương của đức vua khi tha trắng món nợ kếch xù, nên anh đầy tớ độc ác đã vô tình, vô tâm, và đối xử mất hết chất người với kẻ khác. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ nhoi.

Cũng thế, không nhận thức được ơn phúc chủ ban khi kêu mình vào vườn nho từ sáng sớm, tránh được biết bao lắng lo, khổ tâm của một kẻ chờ chực đầu đường cuối chợ, nên hạng thợ buổi sáng đã không cảm thông xót thương cho hạng thợ buổi chiều. Nếu họ được trả một đồng, còn mấy người vào sau chỉ được 25 hay 50 cents thôi thì chắc hài lòng lắm. “Nếu bọn kia được một đồng thì ta phải được một đồng hơn,” nghĩ thế nên họ bất an khi người khác được như mình.

Đúng là thiếu nhận thức tình Chúa, sẽ chẳng có tình người. Khi vô ơn thì cũng dễ vô tình vô tâm.
Thế nên, để sống hạnh phúc hơn trong đời, tôi phải ngước nhìn để khám phá tình Chúa yêu tôi: không nhìn lên với phân bì so đo, nhưng nhìn xuống với cảm thương san sẻ. Có người đã viết: “Tôi cứ buồn mãi vì mình không đẹp như tiên, xinh như hoa, cho đến khi gặp một gương mặt bị phỏng không còn đôi mắt, không còn cặp môi. Từ đó, tôi biết yêu mình và yêu người hơn.”

Và dưới đây là lời cầu nguyện của một cô gái mắc bệnh phong cùi tên Véronique. Trong nỗi đau tột cùng vẫn ánh lên niềm tin yêu tha thiết. Ước gì lời cầu nguyện chân tình đó cũng là tâm tự của bạn và tôi, với Chúa và với tha nhân: 

“Lạy Chúa, Chúa đã đến và xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa mọi sự. Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã mượn cặp mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con. Mỗi độ Xuân về, con tung tăng hái lượm những cách hoa xuân, và Chúa lại xin đôi bàn tay. Bởi vì con là một phụ nữ, con thích ngắm nhìn suối tóc óng ả, ưa nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.

Thế mà bây giờ, đầu con như chẳng còn sợi tóc nào, chẳng còn đâu những ngón tay xinh xinh, chỉ còn lại một vài “que củi” khô queo, nhám nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn con, cái thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến mức nào. Thế nhưng con không thể nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.

Vâng, lạy Chúa, muôn đời con sẽ dâng lên hai chữ “Tạ Ơn”. Bởi vì hôm nay nếu Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cõi đời, con sẽ chẳng tiếc hận gì.

Đời con đã được quá ư đầy tràn, đến kỳ diệu tột độ: sống đắm mình trong tình yêu. Cuộc đời con được Chúa lấp đầy chan chứa, vượt quá những gì mà tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Cha, Cha đã đối xử quá đẹp với bé gái Véronique của Cha, và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! Con xin dâng lời nguyện tha thiết cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương cách đặc biệt những ai đang bị "bệnh cùi tâm hồn", đang đạp đổ, đè bẹp, và hủy hoại.

Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy. Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến, chính mình con cho họ, bởi vì họ là những anh chị em. con.

Ôi Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi nơi thân xác con để những người kia đừng bao giờ biết đến cái đắng cay, lạnh lẽo kinh hồn của “bệnh cùi tâm hồn”. Như mẹ hiền ấp ủ con thơ, Cha hãy ôm con vào lòng và nhận chìm con xuống đáy tim Cha. Xin cho con được mãi mãi ở đó cùng bao người thân yêu cho đến muôn đời. Amen
."

Tôi tự nhủ: nếu hôm nay mình còn chưa thoả mãn với cuộc đời, nếu mình còn bất an với sự may mắn của bao người, nếu mình còn vô tình trước ơn Chúa, thì mình còn phải đọc đi đọc lại lời cầu nguyện trên đây nhiều lần nữa.

KHIÊM TỐN và VÂNG PHỤC
Mt 20, 1 - 16

Lm Nguyễn Bình An

Năm 1979, ông Earl Hamilton, một thượng sĩ chánh Hải quân Hoa kỳ, đã mua 2 ngôi nhà tại Oxnard, California với gidi 23 ngàn dollars một căn. Vì lạm phát và cơn lốc leo thang, hai ngôi nhà ấy hôm nay trị giá khoảng 500 ngàn Mỹ kim, nghĩa là ông có lời gấp 10 lần. Khi đề cập đến vấn đề nay, ông mỉm cười “Chúa thương tôi, nên tôi khấm khá hơn khi tại ngũ”. Nhiều người thấy gương của ông, cũng vội vã đầu tư. Nhưng cơn lốc chim cút hết thời! kinh tế bất ổn, việc làm bếp bênh, hãng xưởng đóng cửa. Ngôi nhà mới mua vì thế bị mất giá năm, sáu chục ngàn. Họ trách và hận trời thiên tư nên không được may mắn như ông Hamilton! 

Sống trên đời ai cũng mong có một cuộc sống ấm êm, sung túc, tiện nghi và thành công. Ai cũng muốn có mảnh bằng, một nghề nghiệp vững chắc, và ráng thử thời vận hên xui. Nhưng thành công hay thất bại còn lệ thuộc vào ba yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà hay “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Hiểu theo đức tin thì Chúa có ban, chúng ta mới có.

Nhiều người đọc kinh “tràng giang đại hải”. Nhiều nhà trưng dọn bàn thờ, hương nến nghi ngút. Nhiều nhóm sốt sắng với việc tôn vương và chia sẻ Lời Chúa. Rồi tự thoả mãn với cái thánh thiện và đạo đức bề ngoài ấy. Họ chỉ trích, sống lập dị, chống đối, và tranh giành chức tước. Tệ hơn thế, họ còn muốn lướt quyền thánh hoá, quản trị và dậy dỗ của các chủ chăn. Bằng mọi giá họ đòi được kính trọng và chào hỏi. Bằng mọi cách, họ phải được ghi danh trong sổ vàng và bực bội nếu có ai chẳng may nổi danh và được nể vì hơn họ. 

Thiển nghĩ cách sống đạo hời hợt này không được Chúa chúc lành và dù có cố gắng cả đời thì họ vẫn lẹt đẹt về cuối. Cái sáng giá mà Chúa chờ đợi là một tâm hồn tan nát khiêm cung, và một lòng sám hối thành thực của người trộm lành. Anh bị án treo bên cạnh Chúa. Anh ngó sang Chúa cầu xin ơn tha thứ vào giờ thứ 24 và phần phước anh được là “hôm nay, anh vào Thiên quốc với Ta”. (Lk 23,43).

Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” Chúa dậy hôm nay không khích lệ tín hữu chờ đến phút chót, rồi chớp nhoáng đổ bộ chiếm cửa trời. Điều Chúa mong mỏi là mỗi tín hữu có một phận sự, một nghĩa vụ, một tài khéo, một sứ mệnh và một ơn gọi đặc thù. Hãy phát triển năng khiếu, thực thi sứ mệnh, chia sẻ ơn gọi và dấn thân phục vụ. Đừng nhìn tha nhân và phân bì. Không dò xét so đo và khinh khi người. Chẳng tự ti khi thua, không tự tôn lúc thắng. Nếu không, chúng ta sẽ là “những chú khỉ giỏi bắt chước và đầy tị hiềm”.

Chúng ta theo Chúa với thiện chí, ý thức và trưởng thành. Đức tin là đèn dẫn lối. Khiêm tốn là tinh thần phục vụ. Vâng phục là phương thế cộng tác. Thương yêu là tôn chỉ hành sự và Nước trời là cùng đích. Với một quan niệm đúng đắn, với một đời sống thiêng liêng vững chắc và với những nhân đức tuyệt vời như trên, chúng ta màng chi đến những vinh quang phù du nay còn mai mất, cũng chẳng ham gì những lời khen chê xã giao và vô bằng. Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên bỏ và bạc đãi những ai thành tâm, rộng lượng và tha thiết với việc nhà trời.

Trong kỳ Đại hội Giáo Sĩ và Tu Sĩ tại Houston năm 1983, một vị đáng kính đã công khai khen thưởng một đồng nghiệp vì không hút thuốc, chẳng nhắm rượu: “thế thì cha thánh thiện quá!” Lời phán đoán nông cạn này có phải là thước đo mức độ thánh thiện không? Nếu đúng thì từ Chúa Kitô đến nay, Giáo hội không có một ai thánh thiện! vì đã hút thuốc và uống rượu!

Sống trưởng thành thiêng liêng là không kênh kiệu và tự đắc như phàm phu tục tử nhận xét “một cha dòng thánh thiện gấp hai cha triều”. Sống khiêm tốn và vâng phục không phải là cúi đầu “trồng cây ngược”. Sống nghèo khó và đơn sơ không có nghĩa là than thở để vơ vét, kèo nài sống sượng và vô duyên.

Trái lại, chúng ta vâng phục mà cương quyết, lắng nghe mà không mù quáng, bất đồng nhưng không đả phá, rộng lượng mà chẳng đòi công, kính phục song không nịnh bợ, giầu có mà không dâm dật, nghèo hèn mà lòng thẳng ngay, thành công mà vẫn khiêm tốn. 

Với triết lý vững chắc và thần học thánh thiện này, chúng ta vui khi tha nhân được ơn lành và thành công. Chúng ta cảm tạ Chúa và hài lòng với hiện tại. Chúng ta không sẽ là những Cain, tra tay giết em vì ghen, vì tị nạnh, vì thua kém!

CHÚA NHẬT HAI MƯƠI LĂM THƯỜNG NIÊN
Mt 20, 1 - 16
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng

Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa. Chẳng hạn: Không phải vô cớ mà Đức Kitô đã trách những kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà giữ cái thái độ được bày tỏ trong những lời này: Mắt thế mắt, răng đền răng (Mt 5, 38). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất những quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dẫn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này (Dives in Misericordia- số 12).

Đọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Những người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như những người làm vườn nho trách ông chủ là đúng?

Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Ơn cứu rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người giữ đạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện mà thôi. Như vậy có phải Thiên Chúa bất công? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không?

Bài đọc một trích sách tiên tri Isaia trả lời rất rõ: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Rất đúng! Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vẫn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh quẫn trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.

Công bằng mà những người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót. Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ? Là Kitô hữu, điểm qui chiếu cho ta vẫn phải là Lời Chúa: Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ. Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con nbgười phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng tội của họ là xong. Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Để cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể. Chúa Kitô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho những đứa con phản nghịch. Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vẫn cứ là tội, vẫn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ. Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vẫn có một giá trị lớn lao, cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống đức tin của họ. Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!

Nước Trời là vậy đó. Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Kitô thực hiện. Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải ăn miếng trả miếng. 

Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn. Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp. Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.

QUẢNG ĐẠI
Mt 20, 1 - 16
Lm Louis Minh Nhiên, CMC

Một công ty thuê một cái tàu du ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên làm việc giỏi và chăm chỉ. Đến ngày đi, các nhân viên ngày xuống tàu và đi tìm phòng của mình. Chỉ vài phút sau, một người chạy vội lên văn phòng muốn gặp vị thuyền trưởng. Một trong nhựng viên chức phụ trách hỏi: “Ông muốn gặp thuyền trưởng để làm gì?” Người đó đáp: “Tôi cũng làm việc giỏi và chăm chỉ như người bạn của tôi, thế mà tại sao anh ta lại được căn phòng xinh đẹp hơn căn phòng của tôi?” Vị phụ trách trả lời: “Thưa ông, căn phòng nào cũng giống nhau cả”. Người đó nói: “Phải, nhưng phòng của anh ta nhìn ra biển khơi, còn căn phòng của tôi chỉ nhìn thấy bến tàu, trông chẳng hấp dẫn chút nào?”

Thật là tội nghiệp. Một khi tàu rồi bến ra ngoài khơi thì hai bên đều nhìn thấy biển giống nhau. Một con chim sẻ phàn nàn với Chúa: “Chúa cho con công nhiều màu sắc rực rỡ xinh đẹp, còn cho chim hoàng anh thì hót thật hay trong khi con chẳng được gì và còn bị quên lãng. Tại sao Chúa lại dựng nên con chỉ để cho con đau khổ?” Chúa nhẹ nhàng trả lời: “Con không được tạo dựng để chịu đau khổ. Con đau khổ vì con phạm vào một lỗi làm giống hệt như con người, đó là con so sánh mình với người khác. Hãy bằng lòng với chính mình, vì không có so sánh thì cũng không có đau khổ”.

Phải chăng nếu để ý sẽ thấy rằng chúng ta thường hài lòng với những gì chúng ta có cho tới khi chúng ta so sánh những gì mình có với những gì người khác có?

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến dụ ngôn thuê người làm vườn nho, thuê người làm từ sáng sớm cho đến người chỉ làm được một giờ trước khi nghỉ và tối đến tất cả đều lãnh được một đồng, khiến cho người làm từ sáng sớm bất mãn kêu ca ông chủ bất công.

Để hiểu rõ thêm về dụ ngôn nầy, chúng ta cần phải hiểu về bối cảnh hoàn cảnh của xã hội Palestine thời Chúa Giêsu sinh sống. Theo William Barclay, một nhà chú giải thánh kinh, ở Palestine mùa hái nho chính vào cuối tháng Chín. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mùa mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời giờ để kịp thu hoạch.

Tiền công trả cũng bình thuờng, một đơniê là tiền công một ngày bình thường của một người làm mướn. Những người đứng chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở xứ Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến năm giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào. 

Những người này là những nhân công làm thuê, thuộc tầng lớp lao động thấp nhất, đời sống của họ luôn bấp bênh, trong đe dọa bị đói. Họ hoàn toàn sống nhờ vào sự thương xót, vào cơ hội làm việc. Nếu họ thất nghiệp một ngày, thì con cái sẽ bị đói. Giống như ở Việt Nam bây giờ, lương công nhân khoảng một hai đô la, và gia đình nào có thể để dành với đồng lương một hai đô la chứ? Do đó, đối với họ một ngày thất nghiệp là một tai họa.

Phải chăng ông chủ bất công? Không, ông chủ không bất công, vì lẽ người làm từ sáng sớm đã đồng ý đã thoả thuận về tiền công nhật là một đồng và họ lãnh nhận được một đồng. Họ lãnh nhận đủ tiền lương của một ngày cho một ngày trọn làm việc. Nhưng khi họ thấy người làm sau cũng được một đồng, mà thật sự đó không phải là vấn đề của họ (it was really none of their business), họ đâm ra tức giận phàn nàn kêu ca. Có lẽ người làm sớm sẽ bằng lòng an tâm nếu họ không chơi trò so sánh. Họ so sánh những gì họ được trả với người khác được trả khiến họ bất mãn để rồi bị lãnh nhận một câu hỏi tuy thành thực nhưng đầy đau đớn: “Phải chăng các người ghen tị vì tôi quảng đại?”

Với dụ ngôn này, một nhà chú giải Thánh kinh đã thêm rằng, người chủ bày tỏ cả sự công bằng lẫn quảng đại. Công bằng với người làm sớm và quảng đại với người làm sau. Ông biết người làm sớm có đủ tiền lo cho nhu cầu sinh sống thường ngày, và quan tâm đến người làm sau. Ông biết rằng một đơniê một ngày không phải là số lương lớn, và nếu người làm công trở về nhà với một số tiền ít hơn nữa, vợ họ sẽ lo lắng và con họ sẽ bị đói, vì vậy người chủ vườn đã vượt qua lẽ công bằng và trả cho họ nhiều hơn số tiền họ đáng được.

Tuy hiểu như vậy nhưng chúng ta vẫn không thoải mái với dụ ngôn bởi lẽ thông thường người chủ không trả lương bổng cho nhân viên theo lòng thương xót vì nếu làm như vậy chắc thương mại của ông chẳng tồn tại lâu dài, thứ đến, nếu tất cả người thợ đều lãnh nhận lương bằng nhau với số giờ làm việc nhiều ít khác nhau thì chắc sẽ có chuyện đình công hay ít nhất cũng có cuộc biểu tình chứ chẳng chơi! Dụ ngôn này tuy không thực tế trong cuộc sống, nhưng đã nói lên sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta,” cũng như làm nổi bật lòng quảng đại nhân lành của Thiên Chúa.

Tất cả đều là ân sủng. Trước mầu nhiệm cứu chuộc, một nhà chú giải Kinh thánh nói rằng, chỉ có Chúa Giêsu là người thợ làm từ sáng sớm, còn tất cả chúng ta chỉ là người đến sau làm muộn. Tất cả những gì chúng ta đã đang lãnh nhận cũng như ơn cứu chuộc đều là quà tặng do lòng rộng rãi của Thiên Chúa nhân lành. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”, chúng ta được mời gọi làm sứ giả đem lại niềm vui cho con người. Thay vì đặt mình là người làm vườn nho, chúng ta hãy đặt mình vào vai trò người được chọn để phân phát tiền cho người làm, phải chăng chúng ta thấy niềm vui mừng sung sướng hiện trên khuôn mặt của người thợ chỉ làm được một giờ khi lãnh nhận tiền công và phải chăng chúng ta cũng đã đang muốn đem những niềm vui giống như thế đến cho tha nhân?

Một buổi sáng nọ, người đàn bà đã làm một cử chỉ lạ thường: dừng xe lại để đóng thuế đường, bà nói với người thâu ngân: “Tôi đóng thuế cho tôi và cho sáu chiếc xe phía sau tôi”. Thế là lần lượt đến phiên mình, sáu chiếc xe đều dừng lại và nghe người thâu ngân giải thích: “Ông không cần phải trả tiền nữa, người đàn bà lái chiếc xe phía trước đã trả thế cho ông rồi.” Tuy bỡ ngỡ, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên khuôn mặt.

Ông chủ vườn nho trong bài Tin mừng hôm nay và người đàn bà trả tiền thế đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân, còn mỗi người chúng ta?

CHÚA QUÁ NHÂN TỪ
Mt 20, 1 - 16

Br Minh Trân, CMC

Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc bên lề đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế ở vùng đấy, và được bác cho biết là họ đang đứng chờ người thuê đi làm. Bác còn thêm: "Ở đây thuê Mễ rẻ lắm". Tôi hỏi tiếp: "Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?" Bác trả lời:"Có người trả họ hai đồng một giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng thì hiếm lắm. Tụi nó... hả... trả bao nhiêu nó cũng làm hết". Thấy cảnh tượng nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ có người sẽ được thuê đi làm, được năm ba đồng nuôi sống gia đình (nghĩ thấy xã hội cũng bất công...) và cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả Nước trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn nho của ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những người thợ làm vườn nho trong bài Phúc âm đều được gia chủ gọi đi làm và được trả công cân xứng.

Theo một số nhà chú giải Thánh kinh thì ở đây Chúa có ý muốn nói cho dân Do Thái (những người được Chúa tuyển chọn, được mạc khải cách riêng) hay dân ngoại (những người chưa nhận biết Chúa), người công chính (những người ngày đêm hằng tuân giữ luật Chúa) hay người tội lỗi, nếu sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi thì đều được Chúa thương đồng đều cả, bất kể trước sau. Chúa vẫn mãi nhân từ, hằng thương yêu hết mọi người, mọi thời, và thương như nhau- có người được Chúa gọi ngay từ tảng sáng, có người từ trưa, và có người mãi đến chiều; và tất cả đều được một đồng tiền lương. Chúng ta không rõ giá trị một đồng thời đó so với một đồng ngày nay thế nào, nhưng chúng ta biết chắc một điều là những người được gọi đi làm từ tảng sáng đã đồng ý ngay với giá lương ấy, và những người được gọi đi là về sau thì cũng không chút phàn nàn khi lãnh lương.

Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hằng ngày đón nhận biết bao ơn phúc và tình thương của Chúa. Hôm nay là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi cao quý mà Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho Chúa. Chúng ta tin rằng cho dầu chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong gia đình đạo hạnh ngay từ tấm bé, hay cho dầu suốt cả đời sống xa tình Chúa và nay được ơn nhận biết Chúa trong những ngày tháng cuối đời, chúng ta đều có quyền tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và yêu thương như chính mình Ngài.

Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn, và đã trao cho chúng con mỗi người mỗi việc trong vườn nho Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con được luôn rộng mở cõi lòng đón nhận ơn Chúa. Chúng con muôn đời cảm tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương đến những người vẫn còn "vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ", ban cho họ được nhận ra tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng quảng đại thưa tiếng Xin Vâng.

DỤ NGÔN LÀM VƯỜN NHO
Mt 20, 1 - 16

Lm Đan Vinh

1) LỜI CHÚA : 
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" (Mt 20,13-15).

2) CÂU CHUYỆN :
ĐỪNG GANH GHÉT NHỮNG AI HƠN MÌNH:
Có một bà kia có tính hay ganh ghét những ai hơn mình. Bà làm chủ một căn nhà trong một hẻm cụt gồm 4 căn có giá trị khác nhau. Khi cơn sốt đất lên cao, ai cũng mong bán căn nhà của mình mà chỉ trong thời gian vài ba tháng gía đã tăng lên gấp đôi. Rồi cả bốn căn nhà trong hẻm đều treo bảng bán nhà. Bà kia định giá căn nhà đúc 2 tấm trước đây chỉ đáng giá 70 cây, bây giờ có thể bán được 150 cây vàng, còn ba nhà kia theo bà nghĩ : chỉ là nhà trệt cấp IV, mái lợp tôn và trần hư hỏng nên chỉ giá từ 50 đến 100 cây là cùng. Một hôm có một đôi vợ chồng việt kiều đến hỏi mua nhà của bà và sau khi thương lượng, họ đã bằng lòng mua với giá 150 cây, đúng như đánh giá của bà. Hôm sau bà nghe biết đôi vợ chồng kia cũng mua cả ba căn nhà bên cạnh với giá 150 cây mỗi căn. Bà cảm thấy ganh tỵ khi biết hai vợ chồng này mua chúng để sẽ đập bỏ đi. Thế mà mỗi căn cũng bán với giá 150 cây bằng với căn nhà cấp II đúc hai tấm của bà. Hôm sau khi gặp đôi vợ chồng kia, bà đã phiền trách họ về việc ấy. Ông chồng liền nói : "Này bà, bà đã thỏa thuận bán cho chúng tôi đúng theo thời gía mà. Tôi đâu có ép giá bà đâu. Còn chúng tôi muốn mua mấy căn nhà bên cạnh bằng giá nhà bà là do chúng tôi muốn giúp đỡ họ và cũng để mau được việc cho chúng tôi. Bà đừng ganh tỵ với họ làm chi !"

GIÁ TRỊ CỦA MỘT CÁI KẸP GIẤY TẦM THƯỜNG :
Cách đây ít lâu, có một phản lực cơ siêu thanh rất đắt tiền được cho bay thử nghiêm. Khi sắp đáp xuống căn cứ không quân ở bang Ca-li-pho-ni-a thì găp sự cố kỹ thuật : Cần số không thể đưa vào vị trí cho phi cơ hạ cánh được ! Viên phụ lái đồng thời là một thợ kỹ thuật máy phản lực giỏi, nên đã lập tức phát hiện ra mạch điện của chiếc rơ-le không hoạt động. Anh ta yêu cầu viên phi công tiếp tục cho máy bay bay trên trời trong lúc anh đi kiếm một vật gì đó để tạm thay cho chiếc rờ -le bị hư kia. Sau một lúc lục lọi, cuối cùng anh đã tìm ra một chiếc kẹp dùng để kẹp giấy bị vứt trong sọt rác. Anh uốn cong nó lại và ráp thay thế vào chỗ chiếc rờ-le bị hư kia. Nhờ đó đã giải quyết được tình trạng nguy hiểm và sau đó máy bay đã đáp xuống mặt đất an toàn. Trong thời điểm ấy cái kẹp giấy bỏ đi kia không những có giá trị quyết định sự sống còn cho phi hành đoàn, mà còn cứu được cả chiếc máy bay rất đắt tiền khỏi bị rơi xuống đất và bị hủy hoại. Trong thời điểm nguy hiểm ấy, chiếc kẹp giấy tầm thường kia lại đáng giá hàng triệu đô-la.

LÒNG NHÂN TỪ CỦA NỮ HOÀNG VIC-TO-RI-A NƯỚC ANH :
Thời nữ hoàng Vic-to-ri-a đang trị vì nước Anh, một gia đình kia gồm bà mẹ và hai đứa con. Chồng chết sớm nhưng bà không đi bước nữa, mà ở vậy nuôi con. Vì một mình kiếm không đủ tiền để nuôi ba miệng ăn và phải chi cho bao thứ tiền khác, nên trên mặt bà chẳng khi nào vui vẻ. Nghe đồn nữ hoàng Vic-to-ri-a có lòng nhân từ và thường hay giúp những người nghèo khổ, nên đứa con trai nhỏ mới 7 tuổi của bà quyết định đi vào hoàng cung để xin được yết kiến nữ hoàng. Thấy một đứa nhỏ đứng ở ngoài cổng nhìn vào hoàng cung, vệ binh gác cổng đã nạt lớn : "Này thằng nhóc kia. Có cút ngay đi chổ khác chơi không thì bảo. Nếu mày muốn đi tù thì cứ đứng ở đó !". Nghe tiếng quát của anh lính gác cổng, cậu bé rất sợ hãi, vừ chạy vừa khóc lên tức tưởi. Bỗng một thanh niên ăn mặc sang trọng ở đâu chạy đến gần cậu và hỏi : "Này nhỏ, sao em khóc ?" Cậu trả lời : "Ba cháu chết, nhà cháu rất nghèo. Cháu nghe nói có nữ hoàng là người nhân đức và thường hay giúp đỡ những người khốn cực như gia đình cháu, nên cháu muốn đến để xin nữ hoàng giúp đỡ cho ba mẹ con cháu. Nhưng cháu mới đứng ở cổng thì bị mấy ông lính kia đuổi đi và còn muốn bắt bỏ tù cháu !". Chàng thanh niên nghe thế, liền mỉmcười rồi cầm tay cậu và ôn tồn nói rằng : "Vậy thì em hãy đi theo ta vào hoàng cung yết kiến nữ hoàng". Khi đi với chàng thanh niên, cậu bé thấy chàng ta dẫn cậu đi qua nhiều cổng. Cậu rất ngạc nhiên khi thấy chàng thanh niên đi đến đâu cũng được bọn lính gác cổng chào thật nghiêm chỉnh. Sau khi vào được bên trong hoàng cung, chàng thanh niên liền dẫ cậu đến một gian phòng lớn rất đẹp, và nói to lên rằng : "Thưa mẹ, có một em nhỏ muốn được gặp mẹ". Thì ra chàng thanh niên kia chính là hoàng tử con của nữ hoàng. Bấy giờ nữ hoàng đã đi ra cửa và niềm nở hỏi chuyện cậu. Sau khi biết rõ hoàn cảnh đáng thương của ba mẹ con, nữ hoàng liền nói : "Con cứ yên tâm. Ta sẽ giúp đỡ cho gia đình con. Con hãy về nhà nói với mẹ rằng : Con đã gặp nữ hoàng và nữ hoàng hứa sẽ cầu Chúa ban phúc lành cho ba mẹ con nhé".

Câu chuyện về vị nữ hoàng nhân hậu này đã minh họa cho ông chủ vườn nho trong dụ ngôn "Thợ làm vườn nho" hôm nay. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta thường cư xử thế nào đối với những người nghèo khó bất hạnh đến nhờ chúng ta giúp đỡ ?

MỘT ÔNG VUA NHÂN TỪ VÀ QUẢNG ĐẠI:
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phông-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân đi vi hành đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời sửa sai chấn chỉnh. Ngày nọ đức vua cải trang đến một tỉnh nọ và thuê một phòng trọ trong một khách sạn bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên chủ động bắt chuyện trước : "Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng". Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại : "Sao anh lại nói như vậy ?" Người bồi phòng trả lời rằng : "Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người dân bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trít (Madrid) cũng nên". Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ : " Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó!" Anh bồi phòng lại hỏi thêm : " Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua ?" Nhà vua trả lời : "Anh đoán thật chẳng sai chút nào". Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp :"Phục vụ đức vua thì bình thường phải làm những việc gì hả ông ?" Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp :"Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải đi cạo râu cho ngài !".

Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và đã được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp minh họa cho chúng ta thấy thái độ nhân từ và khoan dung của ông chủ vườn nho tượng trưng cho thiên Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ được Thiên Chúa mời gia nhập vào Hội Thánh vào giờ thứ mười một, tức là theo Chúa lúc cuối đời ngay trước khi chết. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành trên cây thập giá với Đức Giê-su. Ong ta nhờ có lòng tin và biết thành tâm sám hối, nên đã được Người tha tội và còn hứa ban hạnh phúc đời đời như sau :"Tôi bảo thật anh : hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng" (x Lc 23,42-43).

3) SUY NIỆM :
1) SO SÁNH NGƯỜI CON TRƯỞNG VÀ NHỮNG THỢ LÀM VƯỜN TỪ SÁNG SỚM : 
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã tỏ ra bất mãn với người cha khi ông tỏ lòng bao dung tha thứ đối với đứa em hư hỏng đi hoang trở về. Không những ông không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi nò trở về. Người con cả đã tỏ thái độ ganh ghét không thèm vào nhà và kêu trách cha : "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !" (Lc 15,28-30).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng đã cằn nhằn ông chủ khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày. Cả hai dụ ngôn trên đều ám chỉ thái độ của các đầu mục kinh sư và người Pha-ri-sêu. Họ đã tỏ thái độ bất mãn khi thấy Đức Giê-su đối xử khoan dung thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi. Người như một mục tử tốt lành : Đi tìm từng con chiên lạc, đem lại cho những người bất hạnh kia niềm vui và hạnh phúc. Người mời gọi họ hoán cải và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản dù nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giê-su, các đầu mục Do thái này đã tỏ thái độ ganh ghét và cho rằng quyền lợi của mình đã không được tôn trọng.

2) THẾ NÀO LÀ THÁI ĐỘ GANH GHÉT:
Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã tỏ ra ganh tỵ khi thấy Thiên Chúa nhận lễ vật của A-ben và bỏ lễ vật của mình. Hắn ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết chết em và hắn ta đã bị Thiên Chúa trừng phạt. Như vậy người ganh tỵ là kẻ vừa hủy diệt người khác, vừa hủy hoại chính bản thân của mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng đã tỏ ra bực tức và ganh tị khi thấy những người đến trễ chỉ làm việc một giờ. Họ cằn nhằn ông chủ không phải vì ông bất công. Nhưng vì ông đã trả cho người vào làm sau họ mà cũng được trả lương một quan tiền, ngang bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền ít hơn họ thì chắc là họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.
Kẻ ganh ghét đã không "vui với người vui", vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thử cần phải trừ khử. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho mình. Ở đây, Đức Giê-su mời chúng ta sửa đổi cái nhìn về Thiên Chúa : Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ của lề luật. Người có một trái tim tự do biết yêu thương, Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn tìm dịp để trao ban ơn sủng cho loài người chúng ta. Thiên Chúa đã chứng tỏ Người là Chúa của kẻ trộm lành biết sám hối, là chủ của người thợ đi làm trễ vào giờ thứ mười một. Nhưng đồng thời Thiên Chúa cũng là một người cha đầy lòng từ bi nhân hậu.

3) CHÚA MUỐN CHÚNG TA LÀM GÌ ?
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta đừng quá tự hào về bản thân mình. Người kê gọi chúng ta hãy đổi mới cái nhìn về tha nhân, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét nhỏ nhen ích kỷ và sự trả thù ti tiện xấu xa. Đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào trong nhà để chia sẻ niềm vui với cha khi ông đã tìm thấy đứa con bị thất lạc ? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm lúc cuối ngày ? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy vui thật sự với những người hàng xóm bên cạnh chúng ta, chỉ vì chúng ta đã nhận ra họ không phải kẻ thù của chúng ta, nhưng là những người anh em ruột thịt của chúng ta ?

4) THẢO LUẬN :
Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào ? Ta phải làm gì để bỏ thói ganh ghét này ? Bạn thấy lời thánh Phao-lô dạy : "vui với người vui" có dễ thực hành không ? Bạn cảm thấy thế nào khi người khác thành công hơn bạn như : họ thi đậu, có tài ca hát và được nhiều người mến mộ, họ làm việc tông đồ kết quả hơn ta ?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA CHA. 
Chúng con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Đức Giê-su là Con yêu dấu của Cha cho loài người chúng con, để Người dạy dỗ chúng con biết được sự thật về Cha. Qua hình ảnh về người chủ vườn nho có lòng từ bi nhân hậu hôm nay, Đức Giê-su muốn dạy chúng con về thương vô cùng của Cha. Cha luôn quan tâm chăm sóc hết mọi người, nhất là những ai đang gặp đau khổ, đang sống trong tội lỗi và đang bị người thân bỏ rơi. Cha mời gọi hết mọi người trong họ gia nhập vào Hội Thánh để được hưởng ơn cứu độ.

LẠY CHA. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết là : sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội Thánh có thể trổ sinh nhiều hoa trái là sự công bình và tình yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha để mời gọi nhiều người vào vườn nho cho Cha. Xin cho con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng : "Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ".

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

2) LẠY MẸ MARIA. 
Xin hãy cầu Chúa ban cho con trái tim giống như trái tim rất dịu dàng của Chúa Giêsu và trái tim đầy tình yêu thương của Mẹ. Xin cho trái tim con đừng ích kỷ, khép lại dành riêng cho mình, nhưng biết mở ra để đón nhận tha nhân. Xin cho trái tim con trở nên giống như trái tim Chúa : bao dung, nhân hậu và dễ tha thứ. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi sự trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn có sự bình an của Chúa, tránh những gì gây xáo trộn lòng con như sự giận hờn tranh chấp và ganh ghét tha nhân

LẠY MẸ. Xin giúp tình cảm trong con luôn được quân bình : Không quá vui khi thành công, mà cũng chẵng ngã lòng khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn lắng nghe những lời phê bình, chỉ trích của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận tất cả thế giới, để không coi ai là kẻ thù, nhưng biết dùng tình thương để biến thù thành bạn
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Mt 20, 1 - 16
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ngôn sứ Isaia đã kêu lên:” Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần…”. Thiên Chúa là Đấng công bình, Người không xét xử theo công trạng của con người mà là do lòng tốt của Người. Chính vì thế, dân Do Thái trước kia đang sống trong cảnh lầm than cơ cực, đang sống trong cảnh làm tôi đòi cho dân Ai Cập. Họ có cảm tưởng như Chúa bỏ rơi họ hoặc họ đã lãng quên Chúa. Lời mời gọi của Isaia:” hãy trở về với Chúa và hãy tìm kiếm Chúa “ là một lời mời gọi khẩn thiết.

Đối với tôi:” sống là Đức Kitô “thánh Phaolô đã thốt lên như thế. Tin Chúa, tìm Chúa, sống gắn bó với Chúa là lẽ sống của người Kitô hữu. Đoạn Tin mừng Mt 20, 1-16 cho chúng ta thấy lòng nhân từ, trái tim đầy thương xót của Chúa…

CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU: Chúa Giêsu sống trong xã hội Do Thái lúc đó, Người thường bị các người biệt phái, luật sĩ, các vị lãnh đạo tôn giáo, các người xấu rình mò, nhắm tới, chĩa mũi dùi vào Chúa Giêsu. Tất cả họ là những người giả hình, những người vụ hình thức, những người giả dối, sống hời hợt bề ngoài nhưng tâm hồn xa thực tế, trái tim khô cứng, họ không có lòng đạo đức, họ giữ luật Môsê tỉ mỉ bề ngoài, nhưng giữ luật một cách máy móc và thiếu trung thực, thiếu tình thương. Họ chống đối Chúa Giêsu vì những lời nói, những việc làm của Ngài đầy tình yêu thương, đầy lửa mến. Họ chỉ trích Chúa Giêsu vì Ngài yêu thương, gần gũi những kẻ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi. Họ tị hiềm với Chúa vì Chúa luôn gần gũi với những kẻ thấp cổ bé họng, những kẻ bị đẩy ra khỏi xã hội. Đứng trước thái độ xấu xa của những người Do Thái, Chúa kể dụ ngôn người thợ làm vườn nho để gián tiếp chỉ về Ngài, chứng minh Ngài là Người vô cùng nhân hậu. Người chủ vườn nho đi thuê thợ làm vườn nho và thoả thuận trả giá một đồng cho mọi người vào làm vườn bất cứ giờ nào trong ngày.

Tới giờ phát lương vào buổi chiều, người chủ đã trả y giá đã thỏa thuận cho những làm thuê là một đồng mỗi người. Dù rằng ai trong đám thợ cũng tưởng mình sẽ được trả giá cao hơn. Nhưng tất cả đều nhận được chỉ có một đồng theo giá đã thỏa thuận. Do đó có tiếng xì xào, oán trách chủ. Tuy nhiên, chủ đã ôn tồn trả lời:” Nào tôi có làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh lấy phần bạn đã thỏa thuận và ra về”… Chúa Giêsu muốn đưa nhân loại lên tầm cao mới, chiều sâu mới. Con người phải có cái nhìn bằng tình yêu mới có thế nghiệm ra lòng thương xót của Chúa. Chúa yêu thương con người, Ngài làm, hành động vì tình yêu. Tất cả công việc của Chúa đều phát xuất từ trái tim độ lượng của Ngài.

ĐỐI VỚI CHÚA TẤT CẢ ĐỀU LÀ ÂN SỦNG: Đối với Chúa không có sự giao hoán nào cả. Khi Ngài ân thưởng cho ai, Ngài cũng làm vì lòng tốt, vì tình yêu của Ngài. Do đó, con người không thể đòi hỏi Thiên Chúa, không thể nói tay đôi với Ngài được. Ngài có cách nhìn, có cách thẩm định của Ngài. Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Ngài thi ân và giáng phúc. Nên, con người chỉ hoàn toàn phó thác và cậy trông vào Chúa mà thôi. Con người và Thiên Chúa được đặt trên mối quan hệ ân sủng. Đây là giáo huấn căn bản của dụ ngôn và là đối tượng đích thực. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền thi ân, tha thứ cho con người. Ngài có quyền ban thưởng cho ai là do lòng tốt của Ngài. Con người không có quyền kết tội người khác vì chỉ mình Chúa mới có quyền xét đoán và thứ tha tội khiên, Ngài gánh tội và xóa tội cho nhân loại, cho con người. Ngài ban cho ai điều gì là do tấm lòng nhân hậu, từ bi và đại lượng của Ngài.

Chính vì thế,con người hoàn toàn tin cậy, phó thác vào Chúa vì họ biết chắc chắn Chúa sẽ thương yêu họ ngoài sức lượng định của họ. Gương của các thánh đã cho nhân loại càng hiểu rõ hơn lòng từ bi nhân hậu và trái tim đầy nhạy cảm yêu thương của Chúa. Chúa luôn yêu thương kẻ bé mọn vì họ là những người nghèo, là những Anawim của Chúa. Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu bé nhỏ, một Têrêsa Calcutta khó nghèo, một Saviô nhỏ tuổi. Tất cả các Đấng đều được ân thưởng vì tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa vì Chúa là Tình Yêu của chúng con.

THIÊN CHÚA CÓ BẤT CÔNG?
Mt 20, 1 - 16

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Người Dothái và đặc biệt là nhóm Pharisêu và Kinh sư thường hay tự hào họ là dân ưu tuyển của Thiên Chúa. Và dĩ nhiên, họ đòi Thiên Chúa phải ban cho họ một số quyền lợi hơn những người tội lỗi và dân ngoại. Vì cho rằng mình có đặc quyền, đặc lợi bất khả xâm phạm, nên họ không ngừng rình mò, chỉ trích, ghen tỵ và chống đối trước những hành vi cao thượng mà Chúa Giêsu đã đối xử với những người nghèo khổ, những người thu thuế và tội lỗi. Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” mà Giáo hội muốn con cái mình suy niệm hôm nay không chỉ trả lời cho nhóm Pharisêu và Kinh sư mà còn cho hết những ai vẫn còn đó lòng đố kỵ ghen tương trước tấm lòng nhân ái vô bờ bến mà Thiên Chúa dành cho những người khốn khổ đói nghèo.

Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu như ông chủ bảo người quản lý trả tiền công cho những người vào làm vườn nho lúc tảng sáng (khoảng sáu giờ sáng) đến người vào làm lúc giờ thứ muời một, tức khoảng năm giờ chiều để họ lần lượt ra về. Đàng này ông lại bắt những người vào làm việc lúc tảng sáng, giờ ba, giờ sáu và giờ chín “chứng kiến” việc trả tiền công bắt đầu từ những người vào làm sau hết. Rắc rối nảy sinh từ đây. Thật sự khi chứng kiến người vào làm chỉ có một giờ được viên quản lý trả cho một đồng, những người vào làm việc trước đó khấp khởi mừng. Lý do để họ hy vọng là vì người vào làm có một giờ đâu phải chịu nắng nôi vất vả như họ, thế mà anh ta được một đồng, thì họ phải hơn thế chứ, bởi công bình mà! Thế nhưng đến lượt họ, cũng chỉ có một đồng mà thôi. 

Tại sao chỉ có một đồng? Sao lại bất công như vậy? Quả thật, đọc qua dụ ngôn này, dường như chúng ta cũng có cái nhìn trách móc ông chủ như những người làm công trên đây và dường như chúng ta cũng đồng ý với những người này khi họ mong được ông chủ trả nhiều hơn. Và dường như, cách nào đó, chúng ta khó chịu trước cách hành xử “bất công” của ông chủ và xem những con người kia như những nạn nhân của sự bất công. Bởi chúng ta vẫn thường quan niệm công bình tức là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ tuỳ theo sức lao động và giá trị đóng góp của họ. Đó là loại công bình của loài người, với Thiên Chúa, không phải như vậy…

Ông chủ trong dụ ngôn có bất công không? Thưa rằng không. Bởi lẽ ông thực thi công bình theo đúng kiểu của con người, tức đã thoả thuận trước. Thế việc ông “phân biệt đối xử” trong việc trả tiền công thì sao? “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao?(...) Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Như thế đã rõ, ông chủ không chỉ công bình mà còn hào phóng và rộng rãi nữa. Bởi việc ông đối xử với người vào làm chỉ có một giờ xuất phát từ lòng quảng đại và tình yêu vô bờ bến của ông chứ không xuất phát từ cái nhìn ở khía cạnh thời gian. Ông nhìn nhận nếu cứ xét công bình theo kiểu nhân loại, cuộc sống của người vào làm vườn nho có một giờ và cả gia đình anh sẽ ra sao? Chính vì thế, chúng ta thấy ở đây tình yêu của ông vượt trên mọi lý lẽ công bình như người đời vẫn quan niệm. 

Điều đáng tiếc là những người được kêu mời vào làm vườn nho từ rất sớm đã không nhận ra tình yêu và lòng quảng đại của ông chủ. Những người này có thể là những Pharisêu, những Kinh sư hay những ai có cách nhìn thiển cận về tình yêu của Thiên Chúa. Những người này tự đặt ra một thứ công bình theo kiểu loài người và họ áp đạt loại công bình này cho Thiên Chúa. Họ bắt Thiên Chúa làm theo ý họ, theo tiêu chuẩn mà họ đặt ra. Theo đó, Thiên Chúa có làm gì, làm cho ai và cho bao nhiêu, nhất nhất phải theo thứ luật mà họ đã bày sẵn, ngoài phạm vi này, họ liền xầm xì ta thán, lên án chỉ trích,… Họ chưa hiểu rằng bài học ở đây chính là, công bình không thôi chưa đủ, cần phải có tình yêu để phủ lấp thứ công bình gò bó hạn hẹp theo quan niệm của con người. Bởi xét cho cùng, công bình chỉ có giá trị trong tương quan giữa người với người, còn Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi lý lẽ và công bình, Người chỉ hành động bằng tình yêu mà thôi. Và đây chính là chìa khoá để lý giải cách ông chủ đã đối xử với người vào làm vườn nho trong giờ cuối cùng của ngày.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng có cái nhìn thành kiến, hạn hẹp trước tình yêu và ân sủng mà Thiên Chúa đã thương ban cho những người “đến sau” chúng ta trong vườn nho Giáo hội. Vô hình trung, chúng ta đang theo bước chân của những người Pharisêu và Kinh sư- những người không chấp nhận Thiên Chúa tỏ tình yêu của Người cho người khác. Chúng ta tưởng rằng khi Thiên Chúa tỏ tình yêu và tặng ban ân sủng của Người cho người khác sẽ làm chúng ta thiệt thòi và thua kém, nhưng kỳ thực không phải như vậy, điều Thiên Chúa muốn là tất cả mọi người, không phân biệt mầu da chủng tộc, đều được hưởng tình yêu thương hải hà và ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa Tình yêu.

“Giới hạn của tình yêu là yêu vô giới hạn”. Câu nói thời danh của Thánh Bênađô giúp chúng ta hiểu thấu hơn về tình yêu vô giới hạn của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta khi đối xử với anh em đồng loại cũng hãy dựa trên tình yêu và lòng quảng đại như Thiên Chúa đã đối xử với dân Người.

GHEN TỴ
Mt 20, 1 - 16

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc : làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau ? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày ?

Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả : có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.

Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề : Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tùy ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác : “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.

Quả thật, Ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương ? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng : Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người. 

Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta : hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét. 

Chúng ta hãy nhớ : ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mọi mặt : của cải, tài ba, nhan sắc, thanh công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá…ghen tị nhau. 

Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phải tỉnh lại xem : chúng ta có hơn trẻ con không ? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng ? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ ?

Chúng ta hãy nhớ : ghen tị sinh ra nhiều tai hại : ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc. 

Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều : Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

LÒNG NHÂN HẬU
Mt 20, 1 - 16

Sr Mai An Linh, OP

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về người chủ thuê thợ rất kỳ lạ, kỳ lạ trong cách thức thuê thợ và kỳ lạ trong việc trả lương. Theo bình thường thì ai ai cũng muốn và mong thuê được thợ làm công rẻ và người ta phải liện hệ từ hôm trước hoặc rất sớm để họ có thể làm việc sớm cho mình. Còn đây ngày lao động đã sắp hết mà ông còn ra phố chợ để thuê người làm, không những thế, ông thuê thợ suốt ngày, hình như ông không nghĩ tới phần lợi cho mình, không sợ thiệt cho mình mà chỉ sợ người ở không, không có việc làm.

Và khi trả lương, ông trả lương cho người vào làm sau cùng trước và trả lương cho họ bằng với người làm từ sáng sớm, cho nên những người thợ làm nhiều giờ đã kêu trách ông chủ. Chứng tỏ ông chủ không bình thường, vì bình thường người ta căn cứ vào mức độ làm lợi cho mình mà trả lương, còn ông chủ này không nghĩ đến mình mà chỉ hành xử theo lòng thương xót mà thôi.

Rõ ràng khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn tô đậm nét không bình thường nơi ông chủ vườn nho, làm như vậy để đặt nổi lòng nhân hậu và sự tự do của ông chủ. Ông nhân hậu từ cách thuê thợ đến cách trả lương, ông tỏ ra là người nhân hậu khác thường, ông không nghĩ đến việc mình mà chỉ nghĩ đến những người thợ thất nghiệp, nên đã thuê thợ vào bất cứ giờ nào trong ngày. Rồi khi trả lương ông không căn cứ vào giờ lao động hay số công việc hòan tất mà chỉ hành động theo lòng nhân hậu. Ông đã vượt mọi khuôn thước bình thường. Lòng nhân hậu đã làm cho ông vượt xa giới hạn công bình mà đi vào khu vực tự do nhờ tình yêu “ tôi há không được dùng của tôi tùy ý tôi sao? Hay mắt bạn ghen vì tôi nhân hậu ?”(c.15). Qủa là “ tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi”(Is.55,6).

Ông chủ mà Chúa Giêsu đưa ra chỉ có thể có nơi Thiên Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và tự do, Ngài mời gọi mọi người vào làm vườn nho của Ngài là do lòng nhân hậu và thưởng công cho mọi người cũng chỉ do lòng nhân hậu. Ngài mời gọi mọi người cần đến Ngài, cũng như ông chủ thuê mọi người thợ đang cần đến ông. Thiên Chúa gọi kẻ trước người sau, nhưng gọi mọi người, miễn là họ cần đến Ngài. Ông chủ khi trả lương không căn cứ vào giờ làm và việc làm. Thiên Chúa cũng thế, Ngài trả lương cho ta theo lòng nhân hậu mà thôi, nên chúng ta đừng tính công với Ngài, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng nhân hậu của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài. Hãy cậy dực vào lòng nhân hậu của Ngài vì Thiên Chúa tự do thưởng công. Tất cả những tính tóan, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Đấng Tạo Hóa.

Bài Tin Mừng cũng cho chúng ta khía cạnh khác về những người thợ: Nhóm thợ vào làm đầu tiên khi thấy ông chủ trả lương cho bọn thợ vào làm một giờ, mỗi người một đồng, họ tưởng thế nào họ cũng được hơn một đồng, nhưng khi họ thấy mình cũng chỉ có một đồng, thì họ kêu trách ông chủ và dựa vào sự công bằng với công của họ. Khi lẩm bẩm kêu trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.

Có lẽ chúng ta cũng cho phản ứng của họ là đúng vì nó hợp với phản ứng của chúng ta. Thực ra đó là phản ứng ích kỷ và chính ông chủ cũng cho rằng họ phản ứng không bình thường bởi lẽ: ông trả lương như thế là theo lòng nhân hậu, còn nếu căn cứ vào lẽ công bình mà bọn thợ đầu tiên đòi hỏi thì ông đã sòng phẳng với họ, còn như căn cứ vào lòng nhân hậu thì họ chẳng có quyền gì đòi hỏi cả. Những người này không nhìn ra lòng nhân hậu của ông chủ vì lòng họ ích kỷ mà khi đứng trước lòng nhân hậu của ông chủ họ đã không nhận ra và tưởng mình có quyền đòi hỏi ông chủ. Cũng do lòng ích kỷ mà chẳng những họ đã sai lầm lại còn chuốc lấy hình khổ vào thân là ghen tương, và không được hưởng hạnh phúc khi được chứng kiến “ chi thể” khác được thương mến, hạnh phúc.

Cái nhìn của những người này cũng là não trạng của chúng ta, chúng ta tính toán mình giữ đạo nhiều năm, đọc kinh, dự lễ nhiều lần, làm việc lành phúc đức nhiều nhiều…và yên trí tới ngày trình diện Thiên Chúa chắc chắn sẽ được thanh tóan sòng phẳng, nếu tính công thì chúng ta nguy to, tội của chúng ta mà lấy công để trả thì chết, như lời Thánh vịnh: “ Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững”. Sống theo não trạng này thật nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.

Thực ra Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh mỗi người, người lo chu toàn công việc, người phải bối rối vì không có việc làm, người lo lắng hết ngày mà nồi cơm không gạo…, nhưng người nào cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Nếu chúng ta ý thức được như thế, chúng ta sẽ thoải mái và hạnh phúc, nhất là cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho chúng ta và đáp lại bằng việc làm, không tính toán mà bằng cả tấm lòng.

Lạy Chúa, tư tưởng chúng con nông cạn, trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con hẹp hòi. Xin Chúa hãy mở rộng con tim, khối óc và tư tưởng của chúng con để chúng con có suy nghĩ như Chúa dạy, là biết chấp nhận những gì Chúa đã ban cho mình cũng như cho tha nhân, trong tâm tình cảm tạ, tri ân và chúng con cần đến lòng nhân hậu của Chúa hơn là đức công bình.

THIÊN CHÚA NHÂN LÀNH và CÔNG BẰNG
Mt 20, 1 - 16

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Con người thường suy nghĩ và có cái nhìn theo cách của con người, còn Chúa có cái nhìn và hành động hoàn toàn khác với loài người, với con người. Con người khác xa với Chúa không chỉ vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tối cao, siêu việt, là Đấng thánh thiện vô song, còn con người chỉ là loại thụ tạo tầm thường. Con người khác xa Chúa đến mức độ ghen tỵ hay kêu trách Chúa là bất công khi thấy Chúa xử sự nhân lành với người khác.Những bài đọc Chúa nhật 25, năm A, đặc biệt bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy rõ sự nhân lành và công bằng của Chúa.

Ý NGHĨA TIN MỪNG HÔM NAY : 
Thực tế, thuê công làm việc cho gia đình, cho một tập đoàn, một công ty là một việc làm rất đỗi bình thường. Trong bất cứ một xã hội nào, một nước nào. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thánh Matthêu viết hôm nay quả thực việc thuê thợ làm vườn nho không bình thường chút nào cả: tại sao ông chủ lại trả tiền công đồng đều cho mọi người thợ làm trong ngày vào các giờ khác nhau ? Chúng ta xem cách trả đó có công bằng không vì người chỉ làm có đúng một giờ cũng được ông chủ trả ngang tiền với người làm việc từ sáng sớm ? Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy cách cử xử của ông chủ rất đúng bởi vì ngay từ đầu thu thợ làm vườn nho ông chủ đã thỏa thuận với cách sòng phẳng : bất cứ người làm từ sáng sớm đến người làm từ buổi ban chiều, người làm chỉ một giờ rồi đến giờ ra về, ông chủ đều đã thỏa thuận trả đồng đều một đồng bạc, tất cả họ đã bằng lòng như thế. Do đó, ông chủ đã công bằng hết sức khi trả mỗi người một đồng bạc và đó là quyền của ông chủ. Dụ ngôn này nói lên hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa vô cùng tốt lành, nhân hậu, hơn ông chủ vườn nho bình thường không sao so sánh. Ngài tốt lành, lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa vượt qua mọi sự trả công của con người thường đối xử với nhau trong cuộc đời này. Đối với Thiên Chúa, con người chỉ có thể khẩn nài Thiên Chúa nhờ lòng thương của Ngài, chứ không nào dùng công nghiệp của mình để đổi lấy ân huệ của Ngài được. Đức Giêsu mời gọi con người, mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là một Thiên Chúa công bình, ngay thẳng, công minh mà còn là một người cha đầy yêu thương. Dụ ngôn “ Người con hoang đàng “ “ Con chiên lạc “ “ Đồng bạc đánh mất “ nói lên tấm lòng đầy yêu thương của Người. Bở vì tất cả đều là ân huệ của Người. tất cả đều do lòng nhân hậu lòng tốt của Thiên Chúa.

THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI : 
Chính vì yêu thương mọi người, yêu thương nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã sai của Người là Đức Kitô đến trần gian để mang ơn cứu độ cho nhân loại và để đem hạnh phúc cho muôn người, cho nhiều người. Chúa không phân biệt đối xử với người này người nọ. Chúa luôn luôn công minh, chính trực và tốt lành đối với mọi người. Chúng ta vẫn còn nhớ câu ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: ”Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” ( Mt 20, 15 ). Chúa tốt bụng với mọi người. Tốt bụng cả với người làm chỉ có một giờ vì Chúa đã trả anh ta sòng phẳng không thiếu một hào, một xu khi đã cùng anh cam kết khi bắt đầu làm việc.Biết bao hồng ân, biết bao phúc lộc chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa như thế chúng ta không còn lý do gì để ghen tỵ với người khác, với anh em của chúng ta. Bởi không nhận ra được tình thương của Thiên Chúa mà biết bao tội ác lan tràn trên trần gian, bao cuộc chiến tranh, bắt cóc, lộng hành, chiếm giết đã xẩy ra trên thế giới muôn thời. Cain đã giết Abel em của chính mình. Tháp Babel không thành vì con người ghen tương, không hiểu nhau, ai cũng muốn làm chủ, cũng muốn tự cao tự đại. Người anh cả ghen tỵ với đứa em thứ của mình vì không cảm nhận được tình thương cao vời của người cha và không biết tha thứ cho đứa em lầm lỡ.Người Pharisiêu kiêu ngạo đã ghen tỵ với người thu thuế được Chúa yêu thương và tha thứ, nhận lời. Thiên Chúa yêu thương mọi người miễn là con người biết mở lòng, biết sám hối quay trở về với Người để xin người ban ơn tha thứ.

ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ CUỘC ĐỜI : 
Chúa muốn gửi cho con người cho loài người một sứ điệp: Nước trời là phần thưởng nhưng không Ngài ban cho con người. Thiên Chúa ban cho con người chỉ vì tình yêu, lòng thương xót của Người mà thôi, chứ hoàn toàn không phải công lao con người tạo được cho mình và bắt Chúa phải thưởng công. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa vì Ngài ban những hồng ân quí giá cho người này người kia. Đừng ghen tỵ với họ bởi vì làm như thế là chúng ta muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúa hành động theo ý của Người, bởi vì lòng của Chúa thì bao la và lòng của con người có giới hạn. Chúng ta hãy nhớ lại lời của Chúa :” Những kẻ sau hết sẽ lên trước hết, còn những kẻ trước hết sẽ phải xuống hàng chót “( Mt 20, 16a)

BẰNG LÒNG VỚI CỦA CHÚA BAN
Mt 20, 1 - 16

LM Trần Bình Trọng

Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Ðó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay. 

Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Ðó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người. 

Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Ðấng Cứu thế đến. Khi Ðấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Ðó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa. 

Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa. 

Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Ðường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:8). 

Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Ðó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái. 

Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một1 - tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc - có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ. 

Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Ðó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Ðáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn. 

Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban: 
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng công minh và đại lượng 
Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh 
và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân. 
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn 
để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban. 
Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại 
để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác 
thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa. 
Và xin cho những người đến sau 
cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.

GHEN TỴ
Mt 20, 1 - 16

Thanh Thanh

Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước. Ông có thể xin cho mình, cho gia đình, cho hàng xóm hay cho đồng nghiệp đều được. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:

- Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.
- Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.
- Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.
- Xin cho được một người vợ đẹp, hiền, dịu dàng thì bạn bè lại được hai vợ.
- Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.
- Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người khác sẽ bị mù hai con mắt.

Vì ghen tị mà nhiều người muốn mình được hơn người khác về mọi mặt tốt, nhưng lại muốn người khác gặp thật nhiều rủi ro, bất hạnh.
Vì ghen tị mà con người tìm cách đẩy trách nhiệm cho người khác, còn mình ở ngoài cuộc. 
Vì ghen tị mà con người có thể dùng mọi cách để làm lại, tàn sát lẫn nhau. Miễn là mình có lợi.
Vì ghen tị mà hiệp nhất biến mất, chia rẽ xuất hiện, bất hạnh ập tới.
Vì ghen tị mà nảy sinh bè phái, tranh chấp, chống đối, rồi trở nên mù loà về chân lý và sự thật.
Tính ghen tị biểu lộ thái độ ích kỷ cá nhân, biểu lộ sự tham lam : tiền bạc, lợi lộc, danh dự, uy tín… mà đem lòng ước muốn chiếm đoạt, làm hại, dù đó là anh em mình.

Câu truyện Lời Chúa

Cựu Ước. Khi Đavít đánh thắng quân Phiitinh trở về, nhiều người chúc mừng, tung hô, ca hát, nhảy múa: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn" (1Sm 18,6). 

Vua ghen tị rồi tức giận vì : "Người ta cho Đavít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi” (1Sm 18, 8).

Thế rồi ông bàn với triều thần ý định giết Đavít. Đavít được Giônathan, con vua báo cho biết ý định của cha mình. Rồi Giônathan can ngăn cha đừng đổ máu người vô tội, nhờ bàn tay Đức Chúa mà ta mới thắng được quân Philitinh. Nhà vua nghe theo lời khuyên của con, nhưng lòng ghen tị thì vẫn còn. 

Thời gian sau, Đavít lại đánh thắng quân Philitinh, vua ghen tị và đã phóng cây ghim vào Đavít lúc đang gảy đàn, nhưng ông né được. Và ngay đêm hôm đó, Đavít phải trốn đi nơi khác.

Ghen tị về lợi lộc, danh tiếng, quyền chức mà Saun sẵn sàng tàn sát Đavít, người hết mình phục vụ cho nhà vua.

Tân Ước. Thánh Phaolô tông đồ đã lên tiếng với giáo đoàn Côrintô, vì trong cộng đoàn này đã có những đố kỵ, chia rẽ, bé phái, không hiệp nhất : “Trong anh em có những luận điệu như : Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư ?(1Cr 10,12-13).

Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng, từ đó sinh ra ghen tị. Tôi thích người này, ghét người kia. Tôi theo người này, chống người nọ.

. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn nói ngay thẳng nên phục rồi quý mến và đi theo. Số khác thì không thích tính tình cương trực, thẳng thắn của ông, nên chạy theo Phêrô.

. Một số theo Phêrô, vì ông vừa là thủ lãnh, vừa dễ dãi, “sao cũng được". Thư Galat diễn tả: khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người. Có lẽ vì Phêrô dễ dãi như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ.

. Một số khác lại thích Apôllô. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, biện luận hay, sắc bén để chứng minh về Chúa Giêsu Kitô. Nên nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apôllô nói điều gì cũng đúng, cũng hay.

Khi đã thương ai, mến ai thì cái gì cũng tốt, cũng đúng, và tìm cách thu gom, chiếm đoạt phần tốt về cho mình, nhóm của mình, người của mình.

Những khuynh hướng nặng về tình cảm cá nhân đã tạo nên chia rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, cũng như thời nay, đến nỗi Phaolô phải lên tiếng: "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình" (1 Cr 1, 10).

Câu truyện của Giáo xứ

Trước bàn thờ là hình ảnh của những ngọn nến, những bông hồng rất đẹp. Vâng, nó đẹp và sáng. Nhưng nó sẽ trở nên vô giá trị khi, một hôm :

- Ngọn nến nói với bông hồng : ánh sáng của tôi sáng, lung linh, đẹp quá, phải như vậy thì mới có giá trị. Còn bạn thì làm sao được như tôi.
- Bông hồng lên tiếng : sắc hoa, hương hoa của tôi làm cho con người vui thích, chiêm ngắm. Nếu không có tôi thì bạn không đẹp, con người cũng chẳng có gì để thưởng thức. Tôi mới có giá trị.

Chúng đang tranh đua hơn thua, thì bỗng nhiên, ngọn nến đổ xuống, rơi vào những bông hồng. Lúc này, lửa không còn để thắp sáng và sưởi ấm nữa, mà là lửa huỷ diệt. Lửa thiêu rụi những bông hồng. Còn nến thì bị gai của hoa hồng chọc nát, chầy chụa thân nến. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ, nhưng vì ghen tị, kiêu căng mà cả hai tự huỷ diệt chính mình.

Cùng phục vụ bàn thờ, nhưng vì ghen tị nên cả hai đã tự huỷ diệt nhau.

Hình ảnh của Tân ước thời các tông đồ cũng có ở thời nay. Nhìn vào các xứ đạo, chắc chắn ít nhiều, với hình thức này hay hình thức khác cũng có những đố kỵ, ghen tị giữa người này với người khác; giữa hội đoàn này với hội đoàn khác. 

Nào là ca đoàn, giáo lý viên, ban lễ sinh và nhiều thứ hội đoàn các bà, các ông….. Nhóm thì theo cha sở, nhóm thì theo cha phó, nhóm khác theo thầy xứ, nhóm thì theo các sơ. Vì ghen tị mà gièm pha chỉ trích chống đối nhau. Ôi, thế là chia rẽ. Nhóm nào cũng đấu tranh tìm phần thắng, phần tốt về mình, còn phần xấu, phần trách nhiệm thì tìm cách đẩy cho nhóm khác. Giáo xứ trở nên lộn xộn, mất tình nghĩa.

Nếu phục vụ mà thiếu khiêm nhường thì những việc phục vụ của ta có thể trở thành đầu mối gây mất hiệp thông, là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Vậy chẳng phải xưa, mà nay, vì thiếu khiêm tốn, vì ganh tị mà đã phanh thây thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô thành từng mảnh hay sao.

Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia. 

Đừng để ghen tương, đố kỵ chi phối lời nói, việc làm của ta, để rồi, từ ta, phát sinh nhiều phân rẽ, hận thù. Chúng ta hãy cùng nhau phục vụ Chúa Kitô.

Thánh Phaolô nói : "Nhân danh Chúa Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình. Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy vui với người vui, vì điều đó đôi khi còn khó hơn khóc với người khóc. Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan trọng là hãy hiệp nhất với nhau”.

Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của của người tông đồ: hiệp nhất con người với Thiên Chúa; hiệp nhất con người với con người; hiệp nhất những tâm hồn tan vỡ, để qua đó, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, được tuôn trào đến khắp trần gian. 

Khiêm nhường kiếm tìm hiệp nhất là cách giải thoát những tâm hồn bị ghen ghét thống trị, chế ngự.
Ghen tị là liều thuốc độc giết hại đời ta, gia đình ta, cộng đoàn của ta.

GANH TỴ, CĂN BỆNH MÃN TÍNH CỦA CON NGƯỜI.
Mt 20, 1 - 16
Anmai, CSsR

Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem, thật là hay. Trong trình thuật đấy, tác giả Sáng Thế Ký cho chúng thấy một mối tình thật tuyệt vời, thật đẹp, thật nên thơ giữa Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ. Trình thuật ấy kể lại rằng : “Chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng !”. Thế đấy ! Cứ mỗi buổi chiều, thì mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và hai ông bà cứ tái diễn. Thiên Chúa cho hai ông bà được thừa hưởng tất cả những cây trái trong vườn nhưng chỉ trừ một cây biết lành biết dữ.

Một ngày kia, khi Thiên Chúa chưa đến, vì tò mò, người đàn bà nguyên tổ của chúng sinh, đã mon men đến cái cây biết lành biết dữ đấy để tìm hiểu. Cay đắng thay khi bước đến, bỗng dưng con rắn trên cái cây biết lành biết dữ đã ngon ngọt dụ dỗ bà rằng : “Nếu bà ăn vào thì bà sẽ ngang bằng Thiên Chúa !”. Chắc có lẽ, bà cảm thấy được hưởng trái cây trong vườn địa đàng là chưa thoả mãn, chưa bình an và phải tìm mọi cách sao cho ngang bằng Thiên Chúa. Không chỉ ăn một mình, bà còn rủ rê thêm ông chồng của mình ăn nữa. Ăn xong rồi thì quả thật quá cay đắng cho cuộc đời. Kết quả, không phải như lòng mong ước là bằng Thiên Chúa nhưng bi đát thay là bất tuân lệnh Chúa truyền. Kể từ ngày đó, hai ông bà đã vi phạm “hợp đồng” tình cảm, tương quan giữa Thiên Chúa và hai ông bà nên hai ông bà đã phải bị phạt !

Tội căn bản của sự vi phạm hợp đồng ấy chính là do tính kiêu căng, lòng ganh tỵ, ghen ghét muốn làm sao mình phải bằng Thiên Chúa mới chịu. Nếu như không bằng Thiên Chúa thì tìm đủ mọi cách cho bằng Thiên Chúa, nhưng làm sao mà bằng Thiên Chúa được khi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá còn mình chỉ là thụ tạo nhỏ nhoi trong lòng bàn tay của Ngài.

Lòng ganh tỵ ấy như là chứng bệnh di truyền, ăn vào máu của con người mỗi khi con người cất tiếng khóc chào đời. Bằng chứng là : cái tội bất tuân, cái tội ganh tỵ, cái tội kiêu ngạo ấy tưởng là bài học kinh nghiệm xương máu cho thế hệ mai sau, nhưng cứ đặt chân bước vào trần gian thì con người lại nhiễm trong mình dòng máu của ông bà nguyên tổ. 

Lòng ganh tỵ nổi lên khi một người ý thức được rằng mình không có được những điều mà người khác có. Tại sao chúng ta ganh ghét một người nào đó? Nó không dính dáng gì đến người đó cả. Tại sao người đó phải chịu khiển trách vì cuộc sống chúng ta không được như ta mong muốn, hay sự không vừa lòng hay sự không biết ơn của chúng ta ? Đâu có phải là lỗi của họ đâu, tuy nhiên họ phải gánh chịu những bức xúc, áp lực vì sự không vừa ý, hay bực bội của chúng ta gây ra bởi lòng ích kỷ về lợi ích cá nhân hay lòng tham lam của mình.

Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta không bằng lòng cái tính chất đặc biệt mà mỗi chúng ta có được, vì không có một ai giống một ai về hành động hay suy nghĩ cả. Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta từ chối, không chấp nhận sự thật rằng mỗi một cá nhân, có hoàn cảnh khác nhau, phản ảnh đúng với những ơn lành mà Chúa ban cho chúng ta. Vì thế hoàn cảnh của chúng ta sẽ có cái gì đó không bằng người khác. Lẽ ra, chúng ta nên vui vẻ đón nhận nhưng chúng ta lại ganh tỵ.

Mỗi lần lòng ganh tỵ nổi lên, chúng ta nên tự nhìn vào chính mình và nhắc nhở chúng ta về những gì mà mỗi một chúng ta có được, và bằng lòng với những thứ đó thay vì ganh tỵ với người khác về những điều mà mình không có.

Tâm trạng ganh tỵ ấy ngày hôm nay bộc lỗ rõ nét nhất ở trang Tin Mừng, mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta đậm nét về lòng ganh tỵ mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta. Nói quá một chút là sự vô duyên và vô lý ! Đã thoả thuận với nhau mức lương từ ban đầu khi vào nhận việc. Đến trưa, đến chiều thấy có người vào làm việc thì đó là chuyện giữa ông chủ và người làm thuê chứ mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm ? 

Tưởng chừng như dụ ngôn này quá quen thuộc, quá cũ với chúng ta nhưng thật sự ra nó vẫn cứ mới và cứ mãi mới trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hiểu sao trong chúng ta đa phần mang trong mình cái tâm trạng của người làm công vào giờ thứ ba vậy ! Thử nhìn lại thấy nó lộ lên làm sao ấy cái tính xấu, cái tính ganh tỵ ấy trong lòng chúng ta.

Nhìn vào người xung quanh chúng ta, thấy họ hơn chúng ta một chút về tri thức là chúng ta điên tiết lên, chúng ta tìm đủ mọi cách để nói này nói nọ để hạ danh dự của họ nhưng rồi có hạ được đâu ? Tại sao không cố gắng học hành, nghiên cứu, nghiền ngẫm để có kiến thức bằng họ mà chúng ta cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong sự ganh tỵ, hơn thua !

Đời sống vật chất cũng thế. Ngày nay hơn lúc nào hết, con người ta cứ mãi bận tâm vào chuyện vật chất. Người ta thành công trong cuộc đời, người ta làm lụng vất vả thì người ta được hưởng là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà khi chúng ta nhìn vào những người ấy chúng ta lại lườm, lại nguýt họ vì họ sang trọng hơn chúng ta.

Bi hài nhất mà chúng ta không bao giờ nói ra cho người khác biết đó là chúng ta không bao giờ muốn ai bằng chúng ta cả. Chúng ta là nhất ! Còn thiên hạ chẳng là gì cả. Thật lòng mà hỏi tận đáy lòng, tận đáy lương tâm của ta thử xem một người nào đó trong gia đình, họ hàng, dòng tộc hay cộng đoàn tu của chúng ta đang sống xem. Mấy ai chung vui thật lòng với người thành công trong gia đình hay trong cộng đoàn tu ? Có chăng là những lời đầu môi chót lưỡi chúc mừng cho sự thành công của thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn nhưng bên dưới lời chúc mừng ấy là cả một sự ganh tỵ, hơn thua với người ấy. Sự ganh tỵ, hơn thua này khó mà kiểm chứng được. 

Thử hỏi trong một vụ kiện nào đó, nếu nó thất bại thì mọi người quay lưng lại trách nhau rằng do người này người kia đã gây cho sự thất bại đó. Còn nếu như thành công thì lại mỗi người, chẳng ai bảo ai cứ cố tranh cho được một phần danh dự là do công lao của tôi.

Chúng ta quên rằng, tất cả những danh dự, những thành công đấy trong cuộc sống rồi cũng sẽ qua đi. Tại sao chúng ta lại cứ mãi đi tìm hư danh để mà cắn xé, để mà ghen ghét, để mà giận hờn, để mà ganh tỵ anh chị em đồng loại. Tại sao chúng ta không cố tìm một chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa mà chúng ta cứ mãi miết đi tìm chỗ đứng phù vân trong lòng người đời.

Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê vừa nói với chúng ta : “Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ lưu lại và ở bên mà giúp anh em hết thảy tiến tới và được sự vui mừng của lòng tin, ngõ hầu anh em được tràn đầy vinh quang trong Đức Kitô Yêsu, vì cớ tôi, nhân dịp tôi được tái ngộ với. Chỉ có điều này là anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô, ngõ hầu - hoặc tôi đến và được thấy, hoặc tôi vắng mặt mà được nghe biết - anh em cứ đứng vững trong một Thần khí, cùng nhau chiến đấu, với một tâm hồn, vì đức tin do Tin Mừng đem đến” (Pl 1, 25-27). Ngài dặn chúng ta là hãy cư xử sao cho xứng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chứ không phải chúng ta cư xử theo cảm nghĩ, tình cảm xác phàm của chúng ta. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất đã khẳng định cho chúng ta điều ấy : “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi !”. 

Thế đấy ! Chúng ta vẫn cứ cư xử với nhau theo cái thói của người đời, những người không biết Chúa.

Đoạn cuối trang Tin Mừng mà chúng ta nghe : “Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải của tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?" Đau đớn lắm nếu như Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy. Chúng ta vẫn thường lườm nguýt sự tốt lành, sự nhân hậu của người khác để rồi chúng ta chúng ta đi nói hành nói xấu và lên án họ. Con mắt thể xác chúng ta vẫn nhìn thẳng nhưng con mắt lòng của chúng ta luôn luôn bị cái chứng bệnh là lườm nguýt khi người khác hơn chúng ta. Chúng ta phải xin Chúa để Chúa chữa con mắt lòng chúng ta bớt đi cái thói xấu là lườm nguýt, là ganh tỵ với anh chị em đồng loại. 

Hôm nay, nhân dịp Chúa nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ sống của những người ganh tỵ, chúng ta bỏ chút thời gian để lòng nhủ lòng, dạ hỏi dạ trước mặt Chúa thái độ sống của chúng ta. Chúng ta có vui với người vui, có khóc với người khóc hay không ? Hay là chúng ta bực bội, ganh tức với người vui còn với người hoạn nạn, đau đớn khóc than ta lại mỉm cười ?

Chuyện căn cốt như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đó là thái độ sống hợp với Tin mừng, hợp với những gì Chúa dạy và chúng ta nên nhớ rằng tư tưởng của chúng ta khác Chúa nhiều lắm. Chúa thì yêu thương, bao dung, rộng rãi còn chúng ta thì ghen ghét và ganh tỵ.

Nguyện xin Chúa Giêsu là ông chủ tốt bụng trong câu chuyện mà Chúa Giêsu kể hôm nay, luôn yêu thương và thông chuyển lòng tốt bụng của Chúa đến với mỗi người chúng ta, để lòng chúng ta bớt đi một chút ganh tỵ, bớt đi một chút hơn thua và tăng thêm một chút lòng mến, tăng thêm một chút tình yêu, tăng thêm một chút lòng bao dung với anh chị em đồng loại. Amen.

TÌNH YÊU, TIÊU CHUẨN CỦA THIÊN CHÚA
Mt 20, 1 - 16
LM Phêrô Nguyễn Hương

Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin mừng hôm nay không như vậy. Người làm suốt ngày chỉ nhận được một đồng và người làm chỉ một giờ thôi cũng nhận được một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Chủ vườn nho đó lại là chính Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả những người thợ làm từ giờ thứ nhất cũng đã lẩm bẩm trách chủ như thế là không đúng. Nhưng đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động khác với con người. Nói như ở bài đọc I là: “Vì tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta”.

Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?

Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: - Thiên Chúa hành xử với chúng ta phải dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu.

- Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, Ơn cứu độ và ân sủng không phải là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân của Thiên Chúa cho tất cả không có loại trừ ai.

Những người do thái thời Chúa Giêsu nghĩ rằng họ là những người thợ đầu tiên đáng hưởng một đồng, nghĩa là ơn cứu độ, còn những người khác thì không xứng đáng. Chúa Giêsu mang đến một sự mới mẽ qua dụ ngôn này là: Nước Trời, ơn cứu độ được ban tặng cho tất cả, kể cả những kẻ đến sau cùng, những kẻ tội lỗi và cả những người nhỏ mọn nhất nếu họ biết lắng nghe lời mời gọi trở về và cộng tác với Thiên Chúa.

Sự “vô lý” của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta

Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẽ là ngược đời, là vô lý, khác với lí luận của chúng ta. Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dõm là: Thiên Chúa không biết tính toán! Nhưng chính sự “vô lý” của Thiên Chúa lại là cơ hội, là lối vào đưa chúng ta tới Thiên Chúa. 

Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết rồi vì chúng ta đã đắc tội với Ngài, chúng ta chẳng được quyền hưởng gì, vì chúng ta chẳng có công trạng gì với Ngài. 

Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó lại là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ. 

Vì thế, bất kỳ lúc nào, dù là giờ cuối cùng, bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Ngài trong vườn nho của Ngài, và dù làm nhiều hay làm ít Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi nhân hậu của Ngài.

Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của Tinh Yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô hôm nay nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô”, để lượng giá cuộc đời, để nhìn đời và để đối xử với nhau cách lạc quan và vui tươi, hơn là dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, thấy người khác thành công, được ưu đãi, may mắn là sinh ra ghanh tị và tìm cách đạp đổ. Vì bác ái là biết vui với người vui và khóc với người khóc.

THIÊN CHÚA QUẢNG ĐẠI BAO DUNG
Mt 20, 1 - 16

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ghen tỵ luôn là cái gì thật đáng ghét đối với con người. Dù nói thế nhưng con người thường có khuynh hướng ghen tỵ và một cách nào đó không thích ai hơn mình. Đối với Thiên Chúa thật là khác, Ngài mời con người nhìn sâu vào cõi lòng của Ngài. Người không chỉ là một Thiên Chúa công bình, thẳng ngay. Luôn một mực phán xét con người theo đường chính trực, nhưng Ngài là một người Cha từ ái, hay chạnh lòng thương xót. Ngài là Thiên Chúa tình yêu.

Dụ ngôn người thợ làm vườn nói lên tình thương bao la của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Dụ ngôn này cho thấy người làm từ sáng sớm đã ghen tỵ với người chỉ làm có một giờ mà vẫn được Ông Chủ trả một đồng. Nếu Ông Chủ trả người làm một tiếng ít tiền hơn người làm từ sáng sớm hay người làm từ giờ thứ 8, thứ 9, thì quả không hề có vấn đề gì ! Những người làm nhiều giờ hơn đã phàn nàn: ” Chúng tôi đã làm suốt ngày dưới cái nóng gay gắt “. Ông Chủ quả thực có lý khi Ông trả lời: ” Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao ?” Và Ông Chủ còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: ” Hay vì anh ghen tỵ vì tôi quảng đại chăng ? “. Thực tế, dụ ngôn này Chúa dùng để cảnh cáo mọi người đừng tính toán, đừng so đo với Thiên Chúa vì những công phúc mình làm, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con người, cho mỗi người chúng ta vì tất cả chúng ta đều là tội nhân cần có ơn tha thứ của Chúa. Công lao của con người làm sao có thể sánh với tình thương và lòng bao dung, tha thứ, quảng đại của Thiên Chúa được. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn này để cảnh cáo người Do Thái đừng phân bì với những kẻ tội lỗi và những người ngoại giáo được ơn trở lại và thừa hưởng Nước Trời vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không Thiên Chúa trao ban cho con người, chứ không do công phúc của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu quả đã nói lên tất cả: ” Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao: cầm lấy phần của bạn mà đi đi…”. Thiên Chúa luôn nhân từ, luôn tha thứ tội lỗi cho con người chỉ vì lòng quảng đại, thương xót của Ngài mà thôi. Con người luôn có khuynh hướng, có óc hẹp hòi muốn giới hạn thình thương của Thiên Chúa. 

Thiên Chúa luôn luôn công bình, nhưng điều quan trọng hơn hết là Ngài luôn luôn quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết mọi người. Dụ ngôn nói tới người cùng vào làm vườn nho ám chỉ tất cả mọi người chúng ta. Thiên Chúa ban phát ân sủng cho con người chúng ta: Ngài ban cho chúng ta vũ trụ, vạn vật, xã hội, đời sống, gia đình, thế giới xinh đẹp với biết bao nhiêu con người đang cùng chúng ta sinh sống. Thiên Chúa ban cho chúng ta đức tin, lòng mến, lòng cậy trông và điều đặc biệt hơn là chúng ta được làm con Thiên Chúa, làm con của Giáo Hội. Tất cả đều là hồng ân.Tất cả đều là ân sủng Thiên Chúa tặng ban cho con người, cho mỗi người.

Thiên Chúa là tình yêu như thánh Gioan đã nói. Chính vì không cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, muốn ganh ghét, ghen tỵ mà Ađam và Eva đã phạm tội, Cain đã giết em mình là Aben, người anh cả đã ghen tương, không chấp nhận người em lầm lỡ trở về nhà Cha của mình, những người Pharisêu ghanh tỵ với những người tội lỗi ăn năn sám hối trở về vv…Viên bách quản ngoại giáo đã có lòng tin vững mạnh, nên đã được Chúa thương, làm phép lạ cho người đầy tớ của ông đang đau nặng được khỏi. Thiên Chúa giầu tình thương và luôn luôn tha thứ. Ai tư tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Những kẻ đứng chót sẽ được nâng lên ( Mt 20, 16 ). 

Nước Trời là phần thưởng nhưng không Thiên Chúa quảng đại tặng ban cho con người. Bí Tich Thánh Thể là lương thực nuôi sống con người, nuôi sống chúng ta. Chúa luôn dùng Mình và Máu của Người để dưỡng nuôi chúng ta. Thật sự, chúng ta không ai xứng đáng với ơn cao cả của Chúa. Chúng ta thú nhận sự bất xứng, tội lỗi của chúng ta: ” Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con lành sạch “.

Con người, đặc biệt chúng ta đừng bao giờ tính toán, so đo, hơn thiệt với Thiên Chúa. Công phúc chúng ta làm có đáng là bao so với ân sủng vô biên và nhưng không của Thiên Chúa.

Chúa nói: ” Tôi chính là mục tử nhân lành.Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi “ ( Ga 10, 14 ). Ca nhập lễ chúng ta đọc hôm nay, Chúa phán: ” Ta là Đấng cứu độ dân Ta.Trong mọi cơn gian nan thử thách. Nếu chúng kêu cầu Ta, Ta sẽ thương nhận lời. Và cho đến muôn đời muôn thuở.Ta sẽ là Chúa Trời của chúng “.

Lạy Chúa, Chúa là Cha đầy tình yêu thương, luôn mở rộng vòng tay để chờ đón con người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết tha thứ mọi lỗi lầm cho anh em và cùng anh em vui mừng tiến vào Nước Trời. Amen.

CAO CẢ HƠN LÒNG CHÚNG TA
Mt 20, 1 - 16
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Suốt thời gian sống ở trần gian, Chúa Giêsu đã không ngừng giảng dạy, giải đáp thắc mắc của nhiều người, kể cả các môn đệ, các tông đồ là những người thân tín của Chúa Giêsu, và đưa ra các quan điểm làm thay đổi giá trị nhân sinh: một trong dụ ngôn hôm nay chúng ta được đọc cho thấy quan điểm khác lạc,tuyệt vời của Chúa Giêsu “ Ông Chủ Vườn Nho “. Ở đây, chúng ta có thể xem đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Phêrô về câu hỏi phần thưởng cho những kẻ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Chính vì vậy,dụ ngôn này hình như có lý để nói với các tông đồ trước khi trải rộng đến các người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư, Luật sĩ, những kẻ thu thuế, người tội lỗi, Dân Do Thái và dân ngoại vv…

Như ông chủ vườn nho quảng đại, rộng rãi thương xót mọi người, đã ra các ngã đường mời gọi họ vào làm vườn nho, và trả lương rộng lượng với người này mà vẫn công bằng với người khác.Thiên Chúa cũng thế luôn trải rộng tình thương đến với mọi người mà không đếm xỉa đến sự suy tính theo kiểu người đời vì Chúa rất mực khoan dung, nhân hậu. Đây là một dụ ngôn, chứ không phải là ngụ ngôn. Do đó, ý tưởng nhắm vào ông chủ là Thiên Chúa hơn là các nhóm thợ làm vườn, và các chi tiết khác vốn được hiểu nhiều cách rất khác nhau. Thiên Chúa dùng hình ảnh vườn nho là hình ảnh rất thông dụng trong Kinh Thánh, chỉ về công việc của Thiên Chúa trong thế giới, trong thế gian, và đặc biệt nói về dân Do Thái. Một quan tiền mà ông chủ trả cho mỗi người làm việc trong một ngày. Người Do Thái xưa tính giờ: giờ thứ nhất,3, 6, 9, 11 tương đương với 6, 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 15 và 17 giờ chiều. Nên, ngày làm việc của một người chấm dứt vào lúc 18 giờ chiều. Ông chủ rất rộng lượng, công bằng vì ông chủ đã thỏa thuận với tất cả những người làm việc trong vườn nho. Bởi vì ông và những người làm việc đã thỏa thuận sòng phẳng, tiền công là một quan tiền dẫu làm việc từ sáng hay làm vào buổi chiều. Ông chủ luôn xử công bằng với mọi người vì ông và những nhóm thợ đã thỏa thuận, giao kèo, giao ước với nhau là công nhật một ngày là một đồng. Ông chủ không xử bất công với thợ. Ông đã gọi họ làm đã giao kết, hứa, thỏa thuận với thợ là một quan tiền. Ông chủ rất công bằng trả lương để thợ có tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Đây là ông chủ công bằng, rộng rãi không gây thiệt hại cho ai mà vẫn quảng đại với nhiều người. Đây cũng là câu trả lời cho thánh Phêrô và các bạn khi ông hỏi Chúa Giêsurằng các ông đã bỏ mọi sự mà theo Ngài, các ông sẽ được gì ? Thực tế, công việc của con người chỉ là gợi ý, việc trả công của Thiên Chúa vượt quá sự suy tính của con người. Nước Thiên Chúa không giống như sự hạch toán kinh tế, làm ăn của con người, mà là rộng lượng, quảng đại ‘ công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần’ ( Rm 14, 17 ).

Bài Tin Mừng và các bài đọc hôm nay làm đảo lộn cái nhìn của con người: vị kỷ, ghen tương, tính toán, so đo vv…Do đó, nó đòi hỏi con người phải thay đổi tư duy, cách làm, cách nghĩ, đổi mới từ ngữ, cách cư xử của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, từ bi,thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Thiên Chúa luôn đối xử với con người,với mọi người với tấm lòng yêu mến thiết tha. Nên, chúng ta phải đối xử với anh em, với tha nhân trong tương quan tình yêu chứ không phải ganh tị chỉ muốn hơn kém người.Tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa là tương quan siêu nhiên, ân sủng không chỉ dựa vào việc làm, công phúc của con người mà dựa vào tình thương vì Thiên Chúa chính là Tình Thương (1Ga 4, 8 ). Chính vì thế, Thiên Chúa muốn chúng ta xử sự với nhau như Thiên Chúa đã xử sự với chúng ta chứ không không chỉ dựa trên kinh tế, giờ làm việc, năng xuất vv… 

Xin mượn lời của Nữ tu Emmanuelle Billoteau, ẩn sĩ Dòng Biển Đức để kết luận bài chia sẻ hôm nay :” Như mọi dụ ngôn, du ngôn Chúa nhật này nhằm mục đích buộc chúng ta có lập trường. Đến phiên chúng ta phải chọn! Hoặc là bám vào những quan điểm đã có sẵn-mà đó nghiễm nhiên là quan điểm của những người thợ của giờ đầu tiên, hoặc là mở lòng ra học đi theo đường lối của Thiên Chúa, mà “ tư tưởng và đường lối của Người không phải là tư tưởng và đường lối của chúng ta “ ( Is 55, 8 ). Một lối hành xử lạ thường đáng cho chúng ta lo ngại, nếu trong đức tin, chúng ta không biết động cơ nơi Thiên Chúa là lòng nhân ái chứ không phải là ý chí võ đoán:” Chẳng lẽ vì tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” .Không phải để bóp nghẹt nơi chúng ta trực cảm bẩm sinh về lẽ công bình. Vì chẳng phải nhờ nó mà trong lịch sử nhân loại đã có những bước tiến đầy ý nghĩa tới một thế giới công bình hơn đó sao ? Đức công bình chẳng phải là một trong những thuộc tính của Thiên Chúa, như chúng ta nghe nhắc tới trong các câu cho thấy vị chủ vườn nho tôn trọng hợp đồng trả lương công nhật là một quan tiền đó sao ? Thế nhưng trực cảm về công bình cũng có thể là một cạm bẫy nếu nó trở thành điểm qui chiếu duy nhất, khiến chúng ta cứ đem so sánh, ganh đua-liếc mắt ghen ghét-, đóng cửa lòng mình lại với tha nhân, thậm chí muốn khai trừ họ khỏi gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban, Đấng “ cao cả hơn lòng chúng ta “.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một đức tin mạnh mẽ để chúng con biết nhìn ra Đấng luôn yêu thương, quảng đại đối với chúng con.Xin cho chúng con có cái nhìn rộng mở đối với Thiên Chúa và có sự suy nghĩ, có cái nhìn yêu thương đối với tha nhân. Amen.

TẤT CẢ ĐỀU LÃNH MỖI NGƯỜI MỘT ĐỒNG
Mt 20, 1 - 16

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25, những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.

Bước vào trong sự thân tình của Chúa

Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : "Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta". 

Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho : "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là " Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào. 

Đồng lương yêu thương

Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ? 

Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta : "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.

Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy-lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn. 

Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.

Đồng lương ơn cứu độ phổ quát

Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.

Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín". 

Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.

Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ " đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng " vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời : "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).

Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta : "từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn : " Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? "

Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành," quảng đại và nhân đạo.

PHẢI CHĂNG THIÊN CHÚA QUÁ BẤT CÔNG?
Mt 20, 1 - 16

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.

Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái. 

Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không? 

Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?

1. Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?

Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây. 

Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”. 

Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.

Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.

2. Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa

Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:

Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta. 

Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.

Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. 

Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng! 

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

 

889    19-09-2014 08:45:52