Sidebar

Thứ Sáu
26.04.2024

Chúa Nhật XXIII Thường Niên B năm 2015

CHÚA GIÊSU- ĐẤNG CỨU CHỮA HỒN XÁC
Mc 7, 31 – 37

Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).

Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại… và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.

Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.

Một số ý kiến cho rằng:

Lý do thứ nhất có lẽ là vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha : lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là : tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà Chúa.

Lý do thứ hai, có lẽ là tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm vui lớn lao đó.

Mỗi người chúng ta đều được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa. Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, người câm điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen

HÃY MỞ RA!
Mc 7, 31 – 37

Thiên Chúa, Đấng mở đường là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như “gà mẹ ấp ủ con dưới cánh”, nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.

Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.

Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã “mở đường” cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là “Đấng mở đường” đích thực. Ngài đã “mở tai và mở miệng” cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân “vừa điếc vừa ngọng” từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!

Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.

Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.

Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:

"Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".

Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
- Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
- Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.

Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.

Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! “Epphatha- Hãy mở ra” là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN.
Mc 7, 31 – 37

Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ : dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.

Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.

Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.

Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuết, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.

Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gõng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.

Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở ra".

Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.

ÔI! ĐẸP THAY BAO VIỆC CHÚA LÀM
Mc 7, 31 – 37
Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo Hiến Chế Mặc Khải của công đồng Vaticano II, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người để mặc khải cho họ về chính Thiên Chúa, về tình thương, sự an bài săn sóc, ý định và chương trình cứu độ của Người. (Dei Verbum 25). Đề cập đến Kinh Thánh , thánh Augustinô đã không tiếc lời nói : "Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người" (Augustino, Enarr in Ps 90).

Đúng như thế, Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia (35, 4-7a), hôm nay thật đẹp biết bao, vì nó chứa đầy những dòng chữ yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi. Họ đã bị quân Babylon đánh bại nặng nề. Họ bị cướp bóc và lôi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù địch. Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và nếu họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước. Và nếu họ có thể chạy thoát về đất nước của họ thì ở đó không còn gì nữa.

Đang lúc lối tận, đường cùng, quẫn bách như thế, những lời lẽ dịu dàng của Thiên Chúa phán qua miệng Isaia, lời của Thiên Chúa tình thương đầy an ủi, như tiếp thêm nghị lực cho Dân Chúa đang bị xao xuyến trong cảnh lưu đày : "Can đảm lên, đừng sợ ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người" (Is 35, 4).

Tại sao ngôn sứ Isaia phải khuyến khích họ Can đảm lên, đừng sợ ? Có lẽ họ đang sợ hãi khủng khiếp. Tại sao ngôn sứ lại nói đến nước chảy lên trong sa mạc, suối chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn thành hồ ao, và hoang địa sẽ trở nên suối nước ? Có lẽ dân chúng đang bị hạn hán chăng? Tại sao ngôn sứ lại dùng hình ảnh người mù sáng mắt, tai người điếc sẽ mở ra, và người què quặt nhảy nhót như nai? Nếu không phải vì dân chúng đang gặp lúc khó khăn không nhìn, không nghe, không lê bước được (x. Is 35, 4-7).

Thật ủi an biết bao, bởi dân Chúa cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, mình là đối tượng của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy nay thể hiện cụ thể nơi lời nói cũng như việc làm của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người.

Tin Mừng Marcô hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu "làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được"(Mc 7, 37), giúp chúng ta suy ngẫm về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thể hiện qua việc chữa lành của một "câm điếc " (Mc 7,32).

"Effatà", có nghĩa là "hãy mở ra" (Mc 7, 34). Chúa Giêsu đang đi qua vùng "Thập tỉnh", giữa Tiro, Sidone và vùng Galilea, vùng đất của dân ngoại. Người ta đem đến cho Chúa một người câm điếc, để Người chữa cho anh, hiển nhiên là danh tiếng Chúa Giêsu đã được đồn thổi cho tới đây. "Effatà - Hãy mở ra"(Mc 7, 34). Chúa Giêsu đem anh riêng ra một chỗ, đụng vào tai và lưỡi anh, rồi ngước mắt nhin trời Người thở một hơi sâu, anh câm điếc ấy bắt đầu nghe và nói sõi sàng (x. Mc 7, 35). Thật tốt đẹp biết bao việc Chúa làm.

Khởi đầu công trình sáng tạo, sau khi hoàn tất công trình sáng tạo vũ trụ : "Thiên Chúa thấy mọi sự Người làm : đều tốt đẹp" (St 1, 31). Nay thời Thiên Sai, thời Đấng Cứu Thế đến thực hiện công trình cứu chuộc và sự sáng tạo mới, Tin Mừng cũng nói cùng một cách: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!" (Mc 7, 37) Chúa đã làm cho anh "mở ra".

"Effatà - Hãy mở ra"(Mc 7, 34). Từ việc chữa lành đối với anh câm điếc là một sự "mở ra" cho người khác và cho thế giới, một sự mở ra khởi đầu với các cơ quan nghe Lời Chúa và ca tụng những kỳ công công Thiên Chúa cũng như lòng thương xót của Ngài. Chúa đã làm người để cho con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng lắng nghe tiếng của Thiên Chúa, tiếng của Tình Yêu nói với con tim, và như thế học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền với Thiên Chúa và với các người khác về công trình tốt đẹp Chúa đã làm.

Chắc chắn, tự bản chất của nó, ngọn lửa không thể tỏa hơi âm, và không thể phát sinh khí lạnh ; mặt trời chiếu tỏa ánh sáng, và đương nhiên không thể là nguyên nhận của bóng tối được. Tương tự như thế, Thiên Chúa chỉ có thể làm ra những điều tốt lành bởi vì Ngài là Đấng vô biên tốt lành, là ánh sáng. Ngài là Mặt Trời công chính chiếu tỏa ánh sáng rạng ngời, là lửa hồng tỏa hơi ấm vô biên : "Người làm mọi sự tốt đẹp"(Mc 7,37).

Theo sách Sáng Thế, thì Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Tin Mừng cũng thuật lại : Chúa Giêsu làm mọi sự tốt đẹp (x. Mc 7, 37). Nhưng làm những điều tốt lành không chỉ đơn giản là để làm cho chúng tốt. Nhiều người, thực sự, làm những điều tốt đẹp mà không làm chúng tốt, bọn giả hình chẳng hạn, họ là những người làm những điều tốt đẹp, nhưng trong một tinh thần xấu với một ý định gian tà. Thiên Chúa, Ngài đã tạo dựng tất cả đều tốt lành và làm cho chúng trở nên tốt. "Chúa chỉ là trong tất cả các cách của mình, tín hữu trong tất cả mọi thứ anh ấy làm" (Tv 144, 17) ... Và nếu Thiên Chúa biết rằng chúng ta tìm thấy niềm vui của mình nơi những điều tốt đẹp Chúa đã làm, thì Thiên Chúa vui biết mấy.

Xin với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Mẹ đã luôn luôn "mở ra" cho tình yêu của Chúa, và trái tim Mẹ liên lỉ lắng nghe Lời Chúa, với lòng từ mẫu giúp chúng ta là con cái Mẹ hàng biết "effatà" mỗi ngày để ca tụng những điều tốt đẹp kỳ diệu Chúa đã làm và nhất là sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Amen.

NGƯỜI VỪA ĐIẾC VỪA NGỌNG
Mc 7, 31 – 37
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Câm và điếc đối với con người bình thường thật đúng là hai thế giới khó thông cảm, khó hiểu nhau, khó cảm thông và không hiểu nhau, khó gặp gỡ nhau. Do đó, các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng của thánh Marcô sẽ cho chúng ta hiểu rõ điều này và rồi Chúa đã làm cho người vừa điếc vừa ngọng được khỏi bệnh, nghĩa là đem người ấy trở về với cuộc sống, với thế giới bình thường : nói được và nghe được.

Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 31-37, chúng ta nhận ra quyền năng của Chúa Giêsu.

Người ngọng là người khó trình bầy những điều mình muốn nói cho người khác, khó diễn tả để người khác hiểu được mình. Vừa ngọng vừa điếc là một sự khó khăn quá lớn cho người câm điếc. Điếc không nghe không hiểu được người khác. Do đó, gia đình và nhiều người đã tin vào quyền năng của Chúa Giêsu, nên họ đã đem người vừa ngọng vừa điếc để xin Chúa đặt tay chữa lành. Ngọng giống như có một sợi dây cột lưỡi và làm cho người ngọng không nói lên lời, không diễn tả được điều mình muốn nói.

Chúa Giêsu đụng vào lưỡi người ngọng khiến như sợi dây ràng buộc lưỡi người này được tháo cởi ra. Và giờ đây người ngọng điếc được hoàn toàn bình phục, được hoàn toàn tự do : nói và nghe. Người vừa điếc vừa ngọng nói được rõ ràng và nghe được rõ ràng. Thật là hạnh phúc cho người này.

Phép lạ Chúa Giêsu làm cho người điếc ngọng giúp chúng ta hiểu được thế nào là quyền năng của Đấng tối cao, thế nào là hạnh phúc của người được khỏi bệnh.Thật trớ trêu, nhiều người trong chúng ta không bị câm mà cũng chẳng bị điếc, nhưng nhiều khi họ lại e dè, câm nín, ngại ngùng không dám nói không dám diễn tả, không dám trình bầy điều mình muốn nói vì họ đã có quá nhiều kinh nghiệm bị người khác chọc ghẹo, nói khích, bị khước từ, bị khinh khi, miệt thị, khiến họ trở nên ngọng nghịu, câm nín. Con người cần được mở ra, cần được vén lộ để họ có thể tự do mở ra thế giới của mình, hầu họ có thể gặp được sự thông cảm và nâng đỡ, chở che của người khác.

Bệnh ngọng làm cho người khác không hiểu mình thì điếc làm cho mình chẳng thể nào hiểu được người khác. Thực tế, chúng ta đều muốn hiểu người khác và người khác hiểu được chúng ta.Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta nhiều khi giống như bị ngọng, hay nặng hơn câm để chẳng nói được những điều cho người khác hiểu vì chúng ta nhiều khi quá chủ quan không đủ khách quan để diễn tả điều chúng ta muốn nói. Nhiều khi chúng ta lại giống như người điếc không nghe được người khác nói, khiến chúng ta không hiểu họ, nên hiểu lầm họ, hoặc hiểu một cách quá ơ hờ, chủ quan về họ…

Ephata có nghĩa hãy mở ra để chúng ta nói, để chúng ta ca ngợi những kỳ công, những điều tốt Chúa tạo thành và hiểu được, cảm thông với những điều kỳ diệu Chúa ban cho con người.

Ephata để chúng ta ra khỏi những thành kiến, những đoán mò, những hiểu sai về người khác, giống như những người Nagiarét đã quá thiển cận, thành kiến cứng nhắc đối với Chúa Giêsu. Do đó, họ không nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Thế…

Ephata hãy mở ra để chúng ta không bị câm bị điếc, để chúng ta biết thông cảm, biết đối thoại với người khác bởi vì nhiều khi chúng ta chỉ nghe bằng tai, nói bằng miệng.

Chúng ta hãy nghe chú chồn hoang trong chuyện Hoàng Tử Bé ( Le Petit Prince ) của tác giả Saint Exupéry khi từ giả Hoàng Tử Nhỏ để về rừng: ” Bí quyết của tôi thật là dễ, người ta không chỉ nhìn bằng con mắt nhưng phải nhìn bằng chính con tim của mình “. Chúng ta cũng vậy nghe bằng tai, nói bằng miệng chưa đủ, nhưng phải nghe và nói bằng chính trái tim, bằng chính con tim yêu thương của mình. Hãy yêu như Chúa yêu, chỉ yêu như Chúa chúng ta mới có tấm lòng nói được lòng mình và hiểu được người khác. Câm điếc thể xác đã khốn khổ lắm rồi nhưng câm điếc về tinh thần còn khốn khổ gấp bội.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con câm điếc trước Thiên Chúa và ngọng điếc trước tha nhân, trước anh em. Xin cho mọi người đừng câm điếc với nhau.Xin cho con người ra khỏi sự câm điếc của mình. Xin cho chúng con đừng bắt chước những người dân Nagiarét thành kiến, thiển cận, đóng lòng trước Đấng Cứu Thế. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng trước Lời của Chúa và khao khát sự hiệp nhất giữa anh em.Amen.

HÃY MỞ RA
Mc 7, 31 – 37
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: “Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất”. Họ trả lời: “Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc”.

Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.

Có nhiều thứ điếc.

Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.

Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.

Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.

Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.

Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.

Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.

Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.

Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đến nói với ta: “Ephata”. Hãy mở ra.

Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.

Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.

THIÊN CHÚA VẪN Ở BÊN TÔI
Mc 7, 31 – 37
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.

Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?
Chúa trả lời:
- Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!
Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.

Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.

Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.

Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.

Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.

Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen

VÌ KHÔNG BIẾT NGHE
Mc 7, 31 – 37
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.

Bài Tin mừng Chúa Nhật XXIII TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe ( không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.

Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp “chó câm” như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật…( x.Mt 26,64; Ga 18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi “mọi sự đã hoàn tất”. Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu “nói ngọng, nói vẹt”, tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn… Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.

Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận… mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.

Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết “vi hành” trong lớp vỏ một dân thường để “nghe-nhìn” cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp “làm dâu trăm họ”, nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không “biết” chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức “tiếp xúc cử tri” như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.

Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: “ Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt…” ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc 3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là “chống lại Thánh Thần” ( x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).

Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời “tuyên họa” của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống ( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.

“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con …” Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata ! Hãy mở ra ! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe !

CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Mc 7, 31 – 37
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đứng trước những người câm điếc quả thực chúng ta khó làm cho họ hiểu chúng ta muốn nói gì, muốn diễn tả gì. Bởi vì, điếc chẳng nghe được lời nói của chúng ta và người câm lại không thể thốt lên lời điều họ muốn diễn ta với chúng ta. Do đó, chúng ta hiểu được nỗi vui sướng ra sao khi Chúa Giêsu chữa lành cho người vừa câm lại vừa điếc.

Trong bài Tin Mừng Mc 7, 31-37, Đức Giêsu đã chữa lành cho một người vừa câm lại vừa điếc. Ở đời, thường người câm lại hay bị điếc. Bởi vì nếu chỉ bị câm mà không điếc, người này sẽ rất khó chịu khi họ nghe được, đặc biệt khi ai đó làm điều gì họ phật ý. Người câm sẽ điên lên, sẽ tức bực hết chỗ nói khi họ nghe người khác chửi họ hoặc nói những điều xúc phạm đến họ.Người câm như có một sợi dây ràng buộc, trói buộc lưỡi họ khiến họ không để nói được dù họ rất muốn nói. Đức Giêsu đã đụng tới lưỡi anh ta, khiến sợi dây bị tung ra, bị bật ra, khiến người câm có thể nói được rõ ràng và dễ dàng. Làm điều này, Chúa Giêsu giúp ta hiểu bài đọc 1, hiểu được lời ca của Israen thoát khỏi nô lệ, lưu đầy: sa mạc nở hoa, đất đai phì nhiêu, cây cối xanh tươi làm phấn khởi lòng người. Thiên Chúa sẽ đến cứu dân của Ngài cách thực tế, cụ thể, nghĩa là người mù được thấy, kẻ què đi được, người điếc nghe được và người câm nói được. Chính Đức Giêsu đến thực hiện những điều ngôn sứ Isaia loan báo. Chúa Giêsu nói Ep-pha-tha hãy mở ra. Ngài đã làm cho người câm điếc khỏi bệnh hoàn toàn: nói và nghe bình thường. Việc chữa lành của Chúa Giêsu đối với người câm điếc diễn tả hai dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia đã nói để cho dân chúng nhận ra được Đấng Mêsia. Việc Chữa lành người câm điếc còn nói lên Đức Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Bởi vì, khi tách anh ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đánh tan sự lúng túng của anh ta, đồng thời nói lên lòng thương xót thực sự đối với anh. Chúa Giêsu rất nhạy cảm với tình cảnh hết sức đáng thương của người câm điếc.Như vậy, Chúa Giêsu qua việc chữa lành này vừa tỏ cho nhân loại, cho chúng ta Ngài là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi và đồng thời, Ngài cũng là Đấng giầu lòng thương xót. Việc chữa lành người câm điếc cũng tạo nên nguồn hy vọng lớn lao cho mọi thế hệ đang sống nơi trần gian đầy cam go, thử thách và bệnh hoạn.

Trong một thế giới, con người vẫn chưa bình đẳng về mọi mặt, mơ ước bình đẳng là một cớ vấp phạm đối với những người bệnh họan tật nguyền vì nhiều người cho rằng thà họ đừng sinh ra thì hơn. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài luôn trân trọng những người bệnh hoạn, tật nguyền và luôn bênh vực những mẹ góa con côi. Trước những nghịch cảnh của cuộc đời, những người neo đơn, góa bụa, những trẻ lang thang bụi đời, những kẻ đầu đường xó chợ, những kẻ bơ vơ vất vưởng, các em mồ côi, những cháu tật nguyền, người môn đệ Chúa không được dửng dưng cho rằng những thành phần này đã có những cơ sở xã hội lo cho họ rồi. Mỗi người chúng ta, mỗi môn đệ Chúa phải có trách nhiệm lo cho những người này vì Chúa dạy chúng ta phải yêu thương họ và tỏ tình liên đới gắn bó với họ. Chính thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã nhắn nhủ tất cả những người tin vào Chúa Giêsu đừng đối xử thiên vị, đừng thiên tư, đừng phân biệt giầu nghèo bởi vì những người xem ra không may mắn, khó nghèo lại được Chúa hứa ban nước trời.

Chúng ta và nhiều người có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con bị câm điếc trước lời mời gọi giúp đỡ những người khó nghèo và cảm thông với những người đang gặp khó khăn. Amen.

ĐỨC GIÊSU: DẤU CHỈ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN
Mc 7, 31 – 37
LM Phạm Thanh Liêm, SJ

Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người “thiện tâm” ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.

1. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời
Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật “vất vả”. Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.

Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Gioan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.

Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa “hữu hình” hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.

2. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người
Con người của mọi thời đại vẫn “trọng phú khinh bần”. Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người “đời”. Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người “đời”, thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người “đời”. Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.

Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.

Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có “vấn đề”. Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.

3. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.

Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.

Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.

EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC.
Mc 7, 31 – 37
Lm  Peter Nguyễn Hương

Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm “như câm như điếc” khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.

Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.

Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.

Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.

Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.

Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.

Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được”. Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.

Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác…

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.

Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”.

Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.

CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Mc 7, 31 – 37
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cữ lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết…thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.

Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập Tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.

Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.

Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh không ? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.

Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói “Ép-pha-tha : hãy mở ra”. Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng ? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng : “Phi-át : xin vâng” đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng “Ép-pha-tha” này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.

Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói; không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động : hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.

Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm : tai trâu, tau cối, lơ dễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.

Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng vv…Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình vv…Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi…như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.

CHỮA LÀNH NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Mc 7, 31 – 37
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Đọc Tin Mừng, chúng ta cảm nghiệm sâu xa lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu. Ngài đã làm nhiều phép lạ chữa lành các người bệnh hoạn tật nguyền. Phép lạ được ghi lại trong đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 7, 31-37 nói về việc Chúa Giêsu chữa lành một người vừa câm vừa điếc. Việc chữa lành này của Chúa Giêsu không chỉ nói lên lòng thương xót của Ngài mà còn là dấu chỉ của thời cứu rỗi đã đến. Tất cả các ngôn sứ trong Cựu ước đều loan báo về thời Chúa đến, cứu vớt dân người. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay đã cho thấy vào thời Chúa đến:” mắt người mù được thấy, tai người điếc được nghe, người què quặt sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ nói được”.

Lưỡi và tai là hai cơ quan quan trọng của con người. Câm là bị trói buộc không nói được gì. Điếc không thể nghe được bất cứ điều gì. Người câm và điếc hầu như không hiểu ai mà cũng không ai có thể hiểu họ. Hai cơ quan lưỡi và tai quả thực là hai cơ năng rất cần thiết cho con người. Người câm không thể nói, nên cũng không thể diễn tả được những gì tốt đẹp. Còn người điếc không nghe được gì nên cũng chẳng hiểu người khác. Do đó, người vừa câm và vừa điếc mất đi sự hưng phấn và sinh động của cuộc đời. Người bị câm điếc như bị tách ra khỏi xã hội loài người. Đây là sự đau khổ lớn lao của người câm điếc. Chúa Giêsu hiểu thấu nỗi lòng của người câm điếc, Ngài chạnh lòng thương người câm điếc, nên hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc. Tin Mừng ghi rõ:” Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người nguớc mắt lên trời, rên một tiếng mà nói: “ Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại “ ( Mac 7,33-35 ). Phép lạ Chúa Giêsu chữa cho anh câm điếc hôm nay không chỉ là việc chữa lành thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao sâu hơn : sự sống đích thực mà Chúa muốn mang lại cho con người. Khi đem lại khả năng nói và nghe cho người câm điếc, chúa Giêsu còn muốn gửi cho chúng ta một thông điệp sâu xa hơn: con người không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn do lời Thiên Chúa. Con người chỉ có thể sống đích thực là con cái Chúa khi họ biết mở tâm hồn đón nhận và sống lời của Chúa.

Đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, những người mắc bệnh hoạn, tật nguyền đều bị người Do Thái gán cho cái nhãn hiệu tội lỗi, đáng khinh, đáng ghét. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài yêu thương mọi người không loại trừ bất cứ người nào cả. Chúa cứu độ và giải phóng những người tội lỗi không phải bằng những phép lạ xem ra thần kỳ, ngoạn mục, mà bằng mối quan tâm chữa lành và đem lại hạnh phúc cho họ. Khi chữa lành cho những con người bệnh hoạn, tật nguyền, Chúa Giêsu muốn khẳng định Ngài yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai và rằng những người bị loại bỏ, bị khinh bỉ, bị ruồng rẫy lại là những người được ưu tuyển, những người được quan tâm. Chúa đã đi tới cùng sự chọn lựa này ngang qua cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nơi thập giá của Chúa, tình yêu của Chúa được diễn tả một cách trọn hảo nhất. Chết mới nói lên tất cả, chết mới diễn tả hết tình yêu cao sâu của Người:” Khi Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” hoặc” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Chúa muốn mọi người nhận ra Người là Đấng cứu độ mà muôn dân mong đợi trong chính cuộc thống khổ và cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Thời cứu chuộc mà các ngôn sứ loan báo đã đến mang lại sự công bằng cho mọi người, sự an lành cho những con người nhỏ bé, thấp cổ bé họng, những người bị áp bức. Người ta phải sống trong tình yêu thương của Chúa và cộng đoàn yêu thương, cộng đoàn cứu chuộc phải là cộng đoàn hoạ lại hình ảnh của cộng đoàn tiên khởi; bẻ bánh chung, tiền bạc để chung, của cải để chung vv…Tất cả đều xem nhau như anh em. Cộng đoàn này chắc chắn khác với cộng đoàn mà thánh Giacôbê trong bài đọc thứ 2 đã đề cập: sự chênh lệch giữa kẻ giầu, người nghèo. Thay vì coi nhau như anh em người ta coi người giầu có hơn người nghèo khó. Sự chênh lệch ấy sẽ còn mãi trong thế giới con người, liệu chúng ta có đi ngược dòng để có thể sống giáo huấn của Chúa hay ta cũng rơi vào vết xe cũ của muôn thời: “người giầu được kính nể, người nghèo bị khinh chê vv…”.

Khi chữa lành những người bị bệnh hoạn, Tin Mừng Marcô thường ghi lại Chúa Giêsu ngăn cấm những người đã được Ngài chữa lành không được nói với ai. Đây là bí mật Mêsia. Tuy nhiên, Chúa luôn chứng tỏ với mọi người Ngài là Đấng cứu độ, Đấng Mêsia mà mọi người mong đợi. Dấu chỉ lớn lao nhất là Ngài đã chịu thương khó, đã chết trên thập giá để cứu độ con người và đã sống lại vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con câm điếc trước lời mời gọi của tha nhân. Amen.

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
Mc 7, 31 – 37
Gm. Nguyễn Khảm

"Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được "

Có nhiều khi tôi tự hỏi : Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao ? Tôi lại nghĩ : Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.

Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Ðến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.

Ðể tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Ðồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.

Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.

Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không ? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ : "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc". Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.

Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người Phụ Nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một Phụ Nữ khác nhập viện nằm gần Chị. Người Phụ Nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ Chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người Phụ Nữ mới vào sau nói với Chị "Này Chị ơi, chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc Chị". Câu ấy làm cho Chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến Chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà Chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi Chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng Chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:

"Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Ðôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho Chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như Chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của Chị sẽ phong phú hơn."

Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.

Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.

Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện : "Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra ".

Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.

Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Ðức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông Cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.

Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.

Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ðồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.

Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Ðây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc : "Lạy Chúa Vinh danh Chúa" và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Ðấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói : Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày. Amen

Nguồn vietcatholic.org

 

1430    05-09-2015 08:30:34