Sidebar

Thứ Sáu
19.04.2024

Chúa Nhật XX Thường Niên A năm 2014

  1. Bài Học Về Đức Tin
  2. Lòng Thương Xót
  3. Người Nghèo
  4. Bước Đột Phá Của Lòng Tin
  5. Chúa Cần Một Tấm Lòng
  6. Ơn Cứu Độ Đến Với Dân Ngoại
  7. Yêu Thương Và Khiêm Nhường
  8. Hội Thánh Không Biên Giới
  9. Chúa Nhật Hai Mươi Mùa Thường Niên
  10. Một Đức Tin Mạnh Và Tâm Thành
  11. Bà Có Lòng Tin Mạnh Nên Được Như Bà Muốn
  12. Niềm Tin Chịu Thử Thách
  13. Khi Lũ Chó Đồng Bàn Với Ông Chủ
  14. Vững Vàng Tin Tưởng
  15. Vụn Bánh Rơi
  16. Tin Mừng Không Biên Giới
  17. Chữa Lành Con Gái Một Phụ Nữ
  18. Lòng Tin Của Người Ngoại Giáo
  19.  “Dân Ngoại” Có Lòng Tin Mạnh Hơn “Giudêu”!
  20. Những Ân Tình Thường Tình
  21. Không Ai Bị Loại Trừ Ra Khỏi Trái Tim Của Thiên Chúa
  22. Cầu Nguyện Thế Nào Để Được Chúa Chấp Nhận
  23. Chúa Giêsu Đã Thua Một Đức Tin Tuyệt Vời


BÀI HỌC VỀ ĐỨC TIN
Mt 15, 21 - 28

Đã đành đức tin là một ân ban, một tặng phẩm mà Chúa trao cho con người một cách nhưng không. Nhưng đức tin ấy có lớn mạnh và vững vàng hay không là tùy thuộc chính yếu vào con người. Hạt giống đức tin mà Chúa gieo trong tâm hồn chúng ta thì cũng rất cần sự cộng tác của ta trong việc làm cho nó lớn lên và trổ sinh hoa trái. Cũng như vàng cần được lửa thử luyện để đạt tới độ tinh khiết của vàng ròng, thì đức tin của con người cũng cần được thanh luyện qua những thử thách và gian nan trong cuộc đời này để có được đức tin chân thật và trưởng thành. Ta hãy nhớ lại hành trình đức tin của các tổ phụ chúng ta để rút ra bài học cho mình.

Câu chuyện người đàn bà Canaan ngoại giáo trong Tin mừng hôm nay để lại cho chúng ta nhiều bài học thâm thúy về một đức tin trưởng thành, mạnh mẽ và chân thật.

1. Lòng tin lớn lao và chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng.

Ta không biết được nhờ đâu mà người đàn bà dân ngoại có đứa con gái bị quỷ ám biết được Đức Giêsu. Tin mừng không nói đến điều đó, nhưng có lẽ bà đã biết được Danh Đức Giêsu nhờ những lời truyền khẩu về Ngài qua những phép lạ Ngài làm. Bởi lẽ, Bà là người Canaan , thuộc Dân ngoại. Còn Đức Giêsu là người Do thái, nên ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà. Nhưng khi thấy Đức Giêsu, bà tin rằng cơ may đã đến với bà. Con gái bà hoàn toàn có hy vọng được khỏi bệnh.

Với tất cả tấm lòng thành, bà đến với Đức Giêsu để xin Ngài nhìn đến nỗi đau của một bà mẹ. Bà đau vì nỗi đau của đứa con mà bà đã cưu mang và sinh hạ. Tấm lòng mẫu tử thôi thúc bà vượt qua bao nhiêu rào cản để đến với Đức Giêsu, để đặt hy vọng vào Ngài. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp lại một lời. Một thử thách quá lớn đối với một người mới có đức tin. Rất nhiều người trong chúng ta thắc mắc: “Tại sao Chúa lại hành động như vậy? Đâu rồi hình ảnh một Thiên Chúa tình thương mà biết bao người đã ca tụng như thế?” Phải chăng Chúa Giêsu vô cảm và lạnh lùng trước nỗi đau của người khác? Phải chăng Ngài vô tâm và lãnh đạm trước những việc Ngài có thể làm được? Và chắc chắn còn rất nhiều những câu hỏi rất hợp lý được đặt ra trước thái độ im lặng của Đức Giêsu trước lời kêu xin của người đàn bà ngoại giáo này. Lắm khi, chúng ta cũng gặp sự thinh lặng nặng nề như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi: “Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?” Nhưng đức tin chân thật là biết kiên trì khi Chúa im lặng. Không kiên trì sẽ mất đức tin, mất tất cả.

2. Lòng tin lớn lao là biết kiên trì khi bị từ chối.

Người đàn bà ngoại giáo này không nản lòng trước thái độ im lặng của Chúa Giêsu. Bà đã vượt qua được một giai đoạn quan trọng để làm cho hạt giống đức tin của bà lớn lên. Dù Chúa Giêsu im lặng, người đàn bà cứ đi theo sau Ngài mà kêu xin. Bà kêu xin hoài, kêu mãi khiến các môn đệ Chúa Giêsu cảm thấy bực bội: “xin Thầy bảo bà ấy về đi”. Chắc bà cũng nghe được những lời bực bội ấy của các môn đệ, nhưng bà không nản lòng và không chịu thua. Bà trực tiếp giáp mặt Chúa Giêsu và nài xin Ngài cứu giúp. Nhưng kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng, nếu không muốn nói là làm xúc phạm đến người xin: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”. Bà có sốc không khi Chúa Giêsu ví Dân ngoại, ví bà với chó con nuôi trong nhà, không đáng được hưởng phần ăn của con dân Israel ? Điều đáng khen và đáng mừng là bà đã không thất vọng trước lời từ chối này. Bà đã vượt qua được một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong hành trình đức tin. Đây là một giai đoạn khó khăn vô cùng. Đã có rất nhiều người không thể vượt qua được giai đoạn này nên bỏ cuộc. Còn chúng ta thì sao? Nếu chúng ta để cho cái tôi của mình quá lớn, chúng ta sẽ có nguy cơ mất đức tin. Thực tế là đã có nhiều người bỏ đạo vì cha sở, cha phó hay ông thầy nói những lời làm họ tự ái. . .

3. Lòng tin lớn lao là biết khiêm tốn, khiêm hạ:

Bà mẹ này đã chấp nhận lối so sánh của Chúa Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con và chỉ dám trông chờ những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ. Bà không dám mong được ăn phần ăn của các con cái trong nhà. Sự khiêm hạ của bà đã giúp bà về đích cách thành công. Trong cuộc hành trình đức tin, sức mạnh của lòng tin nằm ở sự khiêm tốn. Với sự khiêm tốn của người đàn bà dân ngoại này, Chúa Giêsu đã ngạc nhiên về bà và khen bà là người có đức tin lớn lao. Lòng tin lớn lao của bà khiến bà: “muốn sao thì sẽ được như vậy” Xin chúc mừng bà. Bà là người đã giành được “vòng nguyệt quế” chiến thắng.

Qua hành trình đức tin gian khó của người đàn bà ngoại giáo này, chúng ta thấy được rằng: tin thật sự không phải là đòi hỏi Chúa làm điều này điều nọ cho chúng ta, nhưng là chờ đợi tất cả từ tay Chúa và đón nhận tất cả như quà tặng tình yêu của Chúa. Tất cả là hồng ân, là tình thương của Chúa.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là làm theo ý của Chúa Cha. “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Nhưng Chúa Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin rằng: Cha vẫn ở với Ngài và nói với Ngài qua những hoàn cảnh khác nhau, nên Ngài đã để cho trái tim của Ngài được tự do vươn rộng ra. Ngài tin rằng điều Ngài sắp làm cho người đàn bà có lòng tin mạnh mẽ là hợp với thánh ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, đã rất trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được thánh ý của Chúa Cha vừa hé lộ cho Ngài.

Ước gì chúng ta luôn có được lòng tin sắt đá vào Thiên Chúa qua từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta biết để Chúa Cha dẫn chúng ta đi từng ngày và mở lòng chúng ta ra với những chân trời mới của lòng tin yêu và phó thác.

LÒNG THƯƠNG XÓT
Mt 15, 21 - 28

Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Người (Lc 1,50). Thiên Chúa của chúng ta giàu lòng thương xót. Ngài tỏ lòng xót thương nhân loại cũng như từng cá nhân. Ngài đã đến trần gian để cứu độ chúng ta cũng vì thương xót chúng ta.

Lòng thương xót của Chúa được ghi lại nhiều đoạn trong Kinh thánh. Đoạn Phúc âm hôm nay cũng cho thấy điều đó. Người đàn bà ngoại giáo đến kêu xin Chúa Giêsu và bà tin tưởng vào Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vua Nhân ái và giàu lòng thương xót. Vì tin tưởng như thế nên bà không nản lòng, cứ bền tâm kêu xin dù Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào. Với lòng tin và kiên tâm của bà, cuối cùng Chúa đã ban cho như ý bà xin. Chúng ta hãy tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa. Những khi chúng ta cầu xin, Chúa có thể đối xử bằng lòng nhân từ kèm với thử thách lòng tin. Chúa sẵn sàng ban ơn nhưng với điều kiện là chúng ta phải ở trong tâm thế sẵn sàng đón nhận và ước mong lãnh nhận. Chúa có quyền ban cho và cất đi nếu Chúa thấy điều đó tốt cho chúng ta trong một giai đoạn nào đó. Nhiều lúc chúng ta kêu xin Chúa nhưng Ngài chưa trả lời ngay dù Người đã nghe thấy rồi. Chúng ta hãy cứ tiếp tục kêu cầu thì Người sẽ ban cho vì Ngài rất yêu thương chúng ta.

Nếu Chúa chưa ban cho chúng ta ơn chúng ta cầu khẩn cũng là vì Chúa thương chúng ta. Suy nghĩ của Chúa cao hơn suy nghĩ của chúng ta nên chúng ta không thể lý giải hết tất cả. Tuy nhiên, lời cầu xin của chúng ta nhiều lúc chưa đúng đắn hoặc chưa thật lòng, chưa đáng được Chúa nhậm lời. Ví dụ : một người xin Chúa cho thi đậu tú tài nhưng cứ lười học bài, … thì Chúa không làm bài thay được. Chúng ta tin vào lòng thương xót Chúa và hành động thì mới có được kết quả mỹ mãn.

Có lẽ vì con người thiếu lòng tin vào lòng thương xót Chúa nên Chúa đã phải tỏ mình qua nữ tu Faustine Kowalska. Chúa vẫn thương và tiếp tục yêu thương nhân loại dù có nhiều người tội lỗi và muốn phớt lờ chân lý Chúa dạy. Thiên Chúa vẫn thương xót không phải vì con người dễ thương nhưng vì Chúa là Cha nhân hậu vẫn trông ngóng những đứa con không tìm đường về, có khi không muốn nghe ai nhắc về vấn đề tôn giáo với họ! Nữ tu Faustine đã được Chúa Giêsu chọn để gởi đến nhân loại sứ điệp Chúa giàu lòng thương xót: Ta không muốn trừng phạt nhân loại đang đau khổ, nhưng ta muốn chữa trị nhân loại bằng cách ôm trọn nhân loại trong trái tim nhân từ của Ta. Qua sứ điệp này, tôi càng tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa đối với tôi là con người tội lỗi và an tâm sống đạo, trông cậy Chúa sẽ ban phần thưởng đời sau. Tôi biết những cố gắng sống đạo của tôi sẽ không uổng phí. Cho dù có những lúc tôi thiếu lòng mến Chúa, thiếu cầu nguyện và làm phiền lòng Chúa nhưng Chúa không muốn chấp tội tôi. Ngài luôn là một người Cha hay thương xót, đang trông ngóng những đứa con lầm đường trở về để tha thứ, để ban ơn và để giao cho mỗi người trông coi một công việc nhà Người. Khi tôi được cộng tác trong Giáo hội Chúa, tôi cảm thấy phấn chấn vì có dịp lập công, mai sau không hổ thẹn khi lãnh một phần thưởng quá lớn lao từ Thiên Chúa Ba Ngôi là hạnh phúc Thiên đàng vĩnh cửu.

Có nhiều người như muốn hỏi Chúa: Chúa có nghe lời con kêu xin chăng, sao Ngài vẫn im lặng! Chắc chắn rằng Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài sẽ ban ơn cho nếu điều chúng ta xin phù hợp cho phần rỗi và ích lợi cho chúng ta. Hẳn là con người bất xứng, không đáng cho Chúa nhậm lời, nhưng vì lòng thương xót, Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin dủ lòng thương chúng con là những kẻ tộI lỗI, yếu đuốI tư bề. Chúng con biết Chúa yêu thương chúng con lắm nên mớI hạ thế mà giảng dạy và cứu chuộc chúng con. Hàng ngày chúng con gẫm suy về lòng thương xót Chúa và cầu xin thống thiết cho nhân loại đang chìm vào u mê của những hưởng thụ và vô tín. Dẫu rằng con người có hai phần xác hồn nhưng nhiều người bỏ quên hồn và chỉ chăm chút phần xác hay đúng hơn là chỉ chăm chút cho đời này mà bỏ quên đời sau. Tất cả mọi người đều cần ở lòng thương xót Chúa, ở sự trợ giúp yêu thương của những người xung quanh. Xin cho chúng con thực sự trở thành những chứng nhân cho Chúa giữa trần gian để loan truyền tình thương Chúa cho mọi người.

NGƯỜI NGHÈO
Mt 15, 21 - 28

Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon - ngày nay là miền nam Libăng - được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6, 15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.

Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà.“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.

“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel ” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.

Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Câu nói của bà như một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Và Đức Giêsu chỉ còn cách bằng lòng “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi ngăn trở, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan, dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa.

Lạy Chúa, trong cuộc sống Ngài ban cho con rất nhiều ơn lành, nhưng đôi lúc con lại không biết quý trọng. Chắc chắn những hành động của con như thế đã làm cho Chúa buồn. Xin cho con biết nhận ra những ơn lành của Chúa như một ơn ban không thể thiếu. Amen.

BƯỚC ĐỘT PHÁ CỦA LÒNG TIN
Mt 15, 21 - 28

Người ta thường nói “có gan mới làm giàu”. Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm lúc ta cần phải có sự liều lĩnh. Liều lĩnh để vượt qua những khó khăn thử thách. Liều lĩnh để có thể vượt qua những rào cản của dư luận … Dĩ nhiên, sự liều lĩnh ấy cần được đặt trên một tiêu chuẩn nào đó. Một trong những tiêu chuẩn cần thiết là lòng tin. Khi có lòng tin người ta mới dám thực hiện bước đột phá.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho ta chiêm ngắm một bước đột phá của người đàn bà xứ Canaan . Như ta biết, thời Chúa Giêsu người Do thái và người ngoại giáo có một sự ngăn cách rất lớn. Họ rất ngại tiếp xúc với nhau. Thế nhưng người đàn bà này dường như không cần chú ý đến điều ấy. Bà ta đến thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Sau một hồi thinh lặng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.”. Bà ta vẫn tiếp tục nài xin “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!". Như một gáo nước lạnh Chúa Giêsu tiếp tục nói với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Nếu như với người khác, có thể họ đã bỏ ra về. Nhưng bà không ngần ngại trả lời:“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." . Với câu trả lời này có thể nói được là Chúa Giêsu phải “tâm phục khẩu phục” nên đã nói: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."

Như thế, ta thấy nếu không có lòng tin mạnh vào Chúa thì người đàn bà này đã không thể nào thực hiện được bước đột phá này. Nhờ đó, con của bà đã được chữa khỏi.

Những ngày gần đây, ở miền Bắc nước ta xảy ra nhiều thiên tai do bão và lũ gây ra. Thông thường những cây nào sau những trận mưa bão mà còn trụ lại được thì những cây đó mới thực sự có giá trị. Thánh Giacôbê đã nói: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1, 2 – 3).

Có thể nhiều lúc trong đời sống đức tin ta thấy dường như Chúa hoàn toàn thinh lặng thậm chí không ngó ngàng gì tới mình. Hãy tin là những lúc ấy chính là những cơ hội Chúa đang chờ ta thực hiện những bước đột phá như người đàn bà này. Chắc chắn Chúa sẽ không quên ta trong những lúc ấy.  

CHÚA CẦN MỘT TẤM LÒNG
Mt 15, 21 - 28

Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao hàm hai ý nghĩa: một đàng Chúa Giêsu xác nhận Dân Israel chính là dân được tuyển chọn, dân của Lời hứa (x. Mt 15,24); đàng khác, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, dành cho tất cả những ai có lòng tin vào Người (x. Mt 15,28).

Là Đấng Thiên sai, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử duy nhất được Chúa Cha sai đến để chăn dắt Israel (x. Ez 34,23). Nhưng thái độ của Dân Do Thái làm cho Chúa thất vọng. Họ tự phụ vào truyền thống là dân riêng, dân được chọn của Chúa, nên thường không tin Ngài.

Chúng ta cũng thường tự hào mình là người Công giáo, những người nắm giữ đức tin chân thật. Lý lịch công giáo của chúng ta được xác nhận qua Sổ Rửa Tội, Thêm sức, Hôn phối. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn Họ đạo. Chúng ta giữ Lễ Chúa Nhật hàng tuần…rồi thôi. Chúng ta cho rằng mình chỉ cần giữ một số Luật quy định thì đã xong bổn phận giữ đạo của mình rồi. Ngoài ra thì cuộc sống của chúng ta chẳng thể hiện một đức tin tích cực nào cả: thiếu một tấm lòng với Chúa và với anh em. Tóm lại, chúng ta là người Công giáo theo sổ sách, nhưng không phải trong đời sống.

Chúa cần nơi mỗi người chúng ta một tấm lòng: “yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình”. Chỉ có tấm lòng mới thể hiện đích xác chúng ta là con cái Thiên Chúa. Bởi vì tin Chúa, có nghĩa là gắn bó toàn vẹn con người chúng ta vào Chúa, sống theo và cho Chúa.

Người đàn bà Canaan được Chúa ban phép lạ theo lời khẩn cầu, vì bà đã tin. Biết bao anh em lương dân chung quanh chúng ta, chưa nhận biết Chúa, nhưng đời sống luân lý của họ nhiều khi tốt hơn chúng ta. Họ ăn ngay, ở lành, thờ Trời và được bình an. Đời sống trong sáng của họ nên như nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta. Cánh cửa ơn cứu độ của Chúa vẫn dành cho họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải sống xứng đáng, vì là con cái Thiên Chúa, và đem Tin Mừng Chúa đến cho những ai chưa được diễm phúc biết Người.

Xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình. Amen

ƠN CỨU ĐỘ ĐẾN VỚI DÂN NGOẠI
Mt 15, 21 - 28

Lm Trần Bình Trọng USA
Người Do Thái thời Chúa Giêsu coi tất cả những ai không có máu Do Thái là dân ngoại. Ngay cả những người có máu Do Thái, nhưng nếu bị tiêm nhiễm bởi những thói hư nết xấu của dân ngoại bang thì cũng bị coi là dân ngoại. Tuy nhiên người đàn bà xứ Canaan được coi là dân ngoại đã không sợ đến với Chúa để xin một ân huệ. Các môn đệ Chúa toan đuổi bà đi, vì bà có vẻ quấy rầy. Điều đó giúp ta hiểu cái cuộc đấu lý giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan.

Có lẽ để thử đức tin của bà, ngay cả chính Chúa cũng toan đặt cản trở cho lòng tin của bà lúc ban đầu, khi bảo bà rằng sứ mệnh của Người là được sai đến với những chiên lạc nhà Israel mà thôi, nghĩa là sứ mệnh của Người không được sai đến với dân ngoại như bà.

Lúc đầu Chúa có vẻ lãnh đạm, lại còn nói những lời có vẻ chạm đến tự ái của bà như không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con (Mt 15,26). Theo mạch văn, thì con cái đây được hiểu là dân được chọn, còn dân ngoại như bà được ví như chó con. Đó là cuộc đấu lý hay đúng hơn là cuộc chơi chữ. Và bà cũng tỏ ra tài khéo trong cách đối đáp: "Vâng. Lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bản chủ rơi xuống" (Mt 15,27). Lời đối đáp của bà có nghĩa là bà sẵn sàng nhận một ơn huệ nhỏ Chúa ban cũng được vậy.

Thấy bà có lòng tin vững mạnh, Chúa lên tiếng ca tụng đức tin của bà, và ban cho bà được toại nguyện, cho con gái bà được thoát khỏi quỉ ám. Chúa nói với người đàn bà ngoại giáo sứ mệnh của Người là trước hết giảng dạy và chữa lành dân riêng của Chúa. Dân Chúa có được cơ hội đầu tiên để nhận lãnh ơn cứu độ, sau đó đến lượt dân ngoại.

Bằng việc Chúa ban cho người đàn bà dân ngoại có lòng tin được hưởng ân huệ, cũng như Chúa đã mở rộng tâm hồn cho người đàn bà dân ngoại, cho viên sĩ quan dân ngoại, cho người phụ nữ dân ngoại ở giếng Gia-cóp, các môn đệ hiểu được cái sứ mệnh của Chúa bao quát hơn, rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn về một dòng giống, một dân tộc mà thôi.

Trước những biến cố này, đức tin vào Đấng cứu độ chỉ giới hạn đến một dân tộc Chúa chọn. Cái thủ đô và trung tâm tôn giáo của họ là Jerusalem. Tuy nhiên Tiên tri Isaia nhìn thấy một Jerusalem mới, có tính cách thiêng liêng, là trung tâm của lòng xót thương của Chúa. Bài trích sách Tiên tri Isaia hôm nay ghi lại: Người ngoại bang nào muốn phụng sự Chúa và yêu mến Người, thì cũng trở nên tôi tớ của Người (Is 56,6).

Jerusalem là thành được chọn cho ơn cứu độ, nhưng ơn cứu độ không phải là độc quyền cho dân thành Jerusalem mà thôi. Cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân riêng của Chúa bây giờ trở nên rộng lớn hơn vì Chúa Cứu Thế đã đến và bày tỏ mình ra, không những cho dân riêng mà còn cho cả dân ngoại nữa. Cái việc chuyển hướng từ cái nhìn có tính cách địa phương, cá biệt, đến cái nhìn có tính cách phổ quát nơi các tông đồ bắt đầu từ khi Thánh Phaolô rao giảng tin mừng cho dân ngoại.

Thánh Phaolô là người Do Thái, nhiệt thành theo đạo Do Thái đến độ cuồng tín. Chẳng thế mà ông đã xin trát của quan tòa để đi bách hại đạo mới là đạo Kitô giáo. Khi được ơn trở lại, Thánh Phaolô đã nhiệt thành rao giảng đạo Kitô giáo cho người Do Thái. Chỉ khi người Do Thái không chịu chấp nhận tin mừng Phúc Âm của đạo mới, thì Thánh Phaolô mới tìm đến rao giảng tin mừng Phúc Âm cho dân ngoại.

Người đàn bà xứ Canaan khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con bà được khỏi bệnh quỉ ám. Những cử chỉ khó chịu của các tông đồ, cộng thêm thái độ hờ hững của Chúa lúc ban đầu cũng không làm nản lòng bà. Lời từ chối ban đầu của Chúa với người phụ nữ chỉ là hình thức thử thách đức tin và lòng kiên trung của bà.

Đối với đạo cũ, đạo Do Thái, ta cũng được coi là dân ngoại. Bằng việc chấp nhận đức tin vào Chúa Cứu Thế, ta được trở nên dân riêng, mới được chọn. Thiết tưởng câu chuyện Chúa thử thách đức tin của người đàn bà ngoại giáo phải dạy ta bài học về đức tin. Vậy đức tin của ta đang ở mức độ nào?

YÊU THƯƠNG và KHIÊM NHƯỜNG
Mt 15, 21 - 28

Sr Theresa Thanh Thiên, O.P.

Nếu nói chung về ý nghĩa của các bài đọc cho ngày Chúa Nhật hôm nay, ta thấy chúng cùng ca ngợi lòng thương xót vô biên của Chúa đã vui lòng khấng ban ơn cứu độ cho hết mọi người, không phân biệt ai. Riêng bài Phúc Âm, ngoài bài học về đức công bình bác ái, coi mọi người là anh chị em ngang hàng với ta, còn dạy ta cách cầu nguyện nữa, mà bà mẹ người Canaan dân ngoại là mẫu gương sáng.

Câu chuyện của người mẹ Canaan cũng được Chúa Giêsu thương nhận lời cầu xin chữa bệnh cho con của bà là một bằng chứng cho lời tiên tri trong bài đọc thứ nhất, về việc ơn cứu độ sẽ được lan tràn khắp địa cầu: "... Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu, và hiến tế của chúng trên bàn thờ,vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc". Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng muốn minh chứng cho mọi người chúng ta đặc biệt là những người Do Thái đồng thời với Ngài biết tại sao ngài đã làm tông đồ cách riêng cho dân ngoại. Ngài đã viện tới lý lẽ của trái tim đầy thương xót bao dung của Thiên Chúa, muốn cho hết mọi người con cái được thứ tha và được cứu độ. Lý lẽ mà thánh Phaolô dùng đây nhắc nhở chúng ta cần phải suy nghĩ đến thái độ của mình: một đôi lần đã sai sót, đối xử không công bình, phân biệt giàu nghèo, tuổi tác, kỳ thị chủng tộc, màu da, ngôn ngữ với anh chị em sống chung quanh ta.

Chỉ có hai lần trong Phúc Âm nói đến việc Chúa Giêsu đi ra khỏi vùng đất Do Thái, đến với dân ngoại và đây là một. Lần này lại là lần duy nhất mà Phúc Âm kể chuyện có kẻ lanh lợi cãi thắng Chúa Giêsu trong cuộc đấu trí với Ngài. Người ấy lại là một người đàn bà Canaan, dân ngoại. Đối với người Do thái thời bấy giờ, người đàn bà không có địa vị trong xã hội. Họ còn thản nhiên khinh thị gọi những người dân ngoại là "cho". Vừa là dân ngoại, lại thuộc hạng đàn bà, bà mẹ Canaan nhận mình là "chó con" thì cũng không lạ lắm. Chúa Giêsu tưởng là sẽ làm cho bà ta bỏ cuộc không quấy rối các môn đệ nữa khi nghe Ngài thử gọi bà trong lối đối xử bất công là "chó". Thật không ngờ bà dùng ngay chính lối nói khiêu khích của Chúa Giêsu để trả lời Ngài. Có người cho rằng nhận là "chó con" thì vinh dự gì mà gọi là thắng cuộc đâu. Nhưng nên nhớ rằng khi phải "tranh cãi" với lòng thương xót thì vũ khí lợi hại nhất và chắc thắng là đức khiêm nhường. Bà mẹ Canaan này đã dùng đúng vũ khí và đúng thủ đoạn khi tranh cãi với một người thông minh như Chúa Giêsu, người "đã làm cho bọn Saducê phải câm miệng" (Mt 22,34), và bọn Pharisêu thông luật "không đáp lại những câu chất vất của Người được một tiếng" (Mt 22,46). Vì thế, chúng ta không nên ngại ngùng gì khi phải "tranh cãi" với cả Thiên Chúa, nhưng phải nhớ dùng đến vũ khí "đức khiêm nhường" mới thắng được.

Làm sao mà bà mẹ Canaan này có được thứ vũ khí "đức khiêm nhường" để mà đấu với Chúa Giêsu? Chắc hẳn đó phải nhờ đến lòng thương con vô bờ bến của bà. Để được Chúa thương nhận lời cầu nguyện của ta, ít là cần 3 yếu tố sau: yêu thương, khiêm nhường, và bền chí. Thực ra cả ba yếu tố đó quy lại chỉ một mà thôi: lòng bác ái yêu thương. Lòng yêu thương của bà mẹ đối với người con gái của bà là lòng yêu thương thật sự. Chính lòng yêu thương nầy đã khiến cho bà có thêm được nhân đức khiêm nhường mau mắn nhận mìnhlà "chó con" và kiên nhẫn, bền lòng bền chí đi lẽo đẽo theo Chúa mà "kêu mãi", đến nỗi các môn đệ phải sốt cả ruột lên.

Nhắc đến tình người mẹ yêu thương con mình đang phải chịu đớn đau mà đã không ngần ngại đi xin xỏ năn nỉ người mắng chửi mình là "cho", đã mau mắn nhận mình là "chó con" để người đó chữa bệnh cho con mình, chúng ta liên tưởng đến tình Chúa quá đỗi yêu thương ta. Người đã vui lòng hạ mình xuống nhận thân phận thấp hèn để cứu chữa ta khỏi tội lỗi và sự chết. Người đã không ngần ngại chịu thống khổ và chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá như một "con chó chết" để cứu chuộc chúng ta. Lòng ta sao không bừng lên ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa của ta, là người Mẹ Hiền, là người Mẹ Yêu đã sinh ra ta vào cuộc đời, nuôi dưỡng ta bằng chính Thịt Máu mình, chữa lành ta khỏi mọi tội lỗi tật nguyền, và cứu ta cho khỏi chết đời đời! Hãy yêu mến Người bằng cả trái tim, với trọn tình yêu, sức lực, và ý chí của ta! Hãy yêu Người!

HỘI THÁNH KHÔNG BIÊN GIỚI
Mt 15, 21 - 28
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu khi khai mở công việc truyền giáo, đã kết nạp 12 môn đệ đi theo Ngài, Ngài nói về nước trời, Ngài giới thiệu về Thiên Chúa Cha và về chính Ngài. Ngài đã làm cho nước lã hóa thành rượi ngon trong tiệc cưới Cana với sự khẩn xin của mẹ Ngài là Đức trinh nữ Maria.Ngài đã làm cho bánh và cá hóa nên nhiều để nuôi sống nhiều ngàn người ăn chưa kể đàn bà và con nít. Ngài chạnh thương bà goá thành Naim khi làm cho con trai duy nhất của bà sống lại. Chúa yêu thương chị em Mácta và Maria khi cho Lazarô chết bốn ngày, đã chôn trong mộ được sống lại. Chúa cảm hóa bà Maria Mađalêna vì bà đã tỏ ra yêu thương nhiều.Chúa lưu tâm đến mọi người đặc biệt những người sầu khổ, yếu đuối,những kẻ chân yếu tay mềm.

Trong Chúa nhật 20 quanh năm, năm A, ba bài đọc cho ta một cái nhìn bao quát,một cái nhìn rộng khắp về một Giáo Hội không biên giới. Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập là một Giáo Hội được đặt trên nền tảng tình thương. Đạo của Chúa mạc khải là đạo tình yêu vì như thánh Gioan nói: " Thiên Chúa là tình yêu "( 1Ga 4,16 ).

Tin mừng thánh Matthêu trong trích đoạn Mt 15,21-28 gợi lại cho ta về một sự đối nghịch của những con người được tuyển chọn, những con người được coi là ở trong với những con người ngoại giáo tức những người nằm ở ngoài. Cái nghịch lý lớn nhất của câu chuyện thánh Matthêu đưa ra trong chúa nhật này là Chúa Giêsu đã mở rộng vòng tay to lớn, vòng tay vô biên, vòng tay không biên giới để yêu thương, qui tụ mọi người.Ngài là vị mục tử tốt lành biết chiên Ngài và yêu thương chiên ( Tv 23 ). Ngài chạnh lòng thương khi thấy đám đông đói khổ, bơ vơ. Cái trớ trêu vẫn là các kinh sư, các ông biệt phái, các người Pharisiêu luôn hung hăng, lên mặt với những người khác. Họ bầy ra nhiều luật lệ, nhưng chính họ lại không làm mà cứ muốn chất lên vai người khác cho thỏa lòng kiêu ngạo của mình. Những người mà Tin Mừng có lần đã thuật lại họ xúng xính trong trang phục lòe loẹt, tua áo dài, thẻ kinh đeo tòng teng, lủng lẳng. Vâng, những người này chỉ muốn một mình vào nước trời và tự làm hàng rào cản người khác gặp Chúa và vào nước trời.

Người đàn bà Canaan mà đoạn Tin Mừng hôm nay đề cập tới là người ngoại giáo, người mà dân Do thái tối kỵ vì mối thù truyền kiếp từ xa xưa. Dân tộc của họ và dân tộc của người Do Thái, dân được Chúa tuyển chọn, dân riêng của Chúa có mối thù ngàn đời. Họ không đợi trời chung với nhau. Nhưng người đàn bà Canaan đã được Chúa đề cao vì lòng tin mạnh mẽ,sắt đá của bà.Chúa đã đoái thương bà, đã nhìn tới tấm lòng chân thành của bà. Chúa đã từng nói có những người ngoại có lòng tin còn mạnh mẽ hơn cả người Do Thái nữa. Tiên tri Isaia đã chẳng nói trước sao : "Dân này thờ ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta ". Chúa giảng đạo, Chúa loan truyền Tin Mừng nước Thiên Chúa, những người xem ra ở trong,nhưng thực ra lại ở ngoài. Có biết bao nhiêu người bị đẩy ra ngoài vòng lề luật, bị đặt ra ngoài Đền thờ, bên lề Hội Thánh, nhưng tâm họ tốt, cái tim họ tinh tuyền, trong sạch, lòng trí mới, quả tim mới. Họ thật sự có tấm lòng thống hối ăn năn, tâm hồn thuộc trọn về Chúa. Chúa đã từng nói cách thẳng thắn với những hạng người giữ đạo hình thức, giữ đạo máy móc, bề ngoài: " không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu độ". Chúa muốn con người thực thi ý Chúa. "Ai là mẹ,là anh,là chị Ta. Đó là những người làm theo ý Chúa ".

Người đàn bà Canaan trong tình thế tuyệt vọng, khó khăn hầu như không còn lối thoát, dù bà chẳng hiểu gì luật Môsê, không hiểu gì về đạo mới của Chúa Giêsu, đã sống niềm tin cách sâu xa,mạnh mẽ.Bà đã kêu lên một cách tin tưởng,cậy trông, một lời khẩn nài vượt biên giới : " Lạy Ngài là con vua Đavít,xin thương xót tôi, con gái tôi bị qủy ám khốn cực tứ bề ". Chúa hiểu lòng tin của bà,nhưng Ngài vẫn tỏ ra như muốn thử lòng bà. Trước lòng tin sắt đá,trước sự kiên nhẫn của người đàn bà Canaan, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đối với bà. Sự van xin,nài nỉ của người đàn bà Canaan, với một đức tin kiên cường, mạnh mẽ, bà đã gặp được Chúa Giêsu và phép lạ đã xẩy ra đối với bà. Điều này làm ta gợi nhớ khi viên bách quản tới gặp và xin Chúa tới cứu chữa người đầy tớ của ông đang đau thập tử nhất sinh. Chúa thấy lòng tin vững mạnh của viên bách quản,nên đã cứu chữa người đầy tớ ấy khỏi bệnh. Phép lạ luôn đòi hỏi lòng tin và sự cộng tác của con người.Chúa nói với người đàn bà Canaan: " Này bà, bà có lòng tin mạnh! Bà muốn sao thì được như vậy ".

Trong dòng đời, trong cuộc hành trình của một con người, con người dẫu có gặp chông gai thử thách, khó khăn,có lúc hầu như tuyệt vọng, người kitô hữu luôn được mời gọi sống niềm tin. Trong một giới khô cằn, người Kitô hữu được gọi mời sống yêu thương. Trong một thế giới xa rời Thiên Chúa, người Kitô hữu được gọi mời giương cao ngọn lửa đức tin để làm chứng cho Chúa phục sinh. Có như thế người Kitô hữu mới sống đúng danh hiệu Kitô hữu của mình. Giáo Hội Chúa Kitô là Giáo Hội vượt qua mọi biên giới vì tình yêu thì không giới hạn.

CHÚA NHẬT HAI MƯƠI MÙA THƯỜNG NIÊN
Mt 15, 21 - 28
John Nguyễn

1. Thái độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn) người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.

2. Giải thích tình huống trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go - khi thắng khi bại - với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl 1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại diện cho dân ngoại.

Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ muốn thử thách bà ấy một chút thôi.

3. Thái độ và chủ ý của Đức Giê-su
Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói với các môn đệ : «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác. Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái. Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ » (Mt 28,19).

Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33. Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân trọng này.

Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại, đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã được toại nguyện.

4. Thiên Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!

5. Hãy rút kinh nghiệm bài học lịch sử
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi». Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.

Hiện nay, các Ki-tô hữu - chiếm 1/3 thế giới - đã thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài… không khác gì các Pha-ri-siêu thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình. Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.

Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách, những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.

MỘT ĐỨC TIN MẠNH và TÂM THÀNH
Mt 15, 21 - 28

Lm Nguyễn Bình An

Lúc phong trào vượt biên ở cao điểm, rất nhiều người lương đến Đền Thánh Fatima, cầu Bình Lợi khấn hứa, xin cho được "như ý cát tường" và hứa sẽ tạ ơn Mẹ nếu "cầu được, ước thấy". Một số đã tự ý xin gia nhập Giáo hội và trở thành những tín hữu thật sốt sắng và đạo đức. Số còn lại đã tạo mãi ảnh mẹ, thắp nhang tôn kính tại nhà và ân cần dặn con cháu "tụi con phải cám ơn Đức Mẹ, vì bả, mà gia đình ta được đến đây bình an." Đây là dấu chứng tỏ tất cả nhân loại, không phân biệt tiếng nói, màu da, chủng tộc, đều là con cái Chúa, và đồng được Chúa ban ơn, chở che và Mẹ Maria nâng đỡ, bao bọc và độ trì.

Từ thời tiên tri Isaiah, Chúa đã phán "người ngoại bang phụng sự Chúa và mến yêu danh Ngài, đều trở thành tôi tớ Chúa" (bài đọc một). Nói chung thì cả nhân loại đều nhận biết Chúa theo mức độ khác nhau. Tùy theo phong tục, tập quán, chủng tộc, mỗi sắc dân lại có một nghi lễ dị biệt. Nhưng tựu trung là tỏ lòng kính yêu tôn thờ "ông Trời", "Thượng Đế" "Đấng Chí Tôn". Vì có nhiều mê tín và dị đoan trong nhân gian, Chúa đã tuyển chọn dân riêng với trách vụ gìn giữ và phát huy "đức tin độc thần". Thái độ kiêu hãnh và khinh miệt những người không cùng niềm tin và không chung nghi lễ phụng thờ phát sinh từ đó. Chúa Kitô đã sửa sai quan niệm thiển cận và sai lầm này qua thiếu phụ Samaria. Bà không được phép bén mảng đến gần đền thánh Giêrusalem, nhưng bà lại được diện kiến và trực thoại với Chúa. Biên giới ngăn cách tôn giáo và nghi lễ do con người tự tạo đã bị Chúa Kitô phá vỡ. Từ đây những ai chân thành tìm Chúa và thờ trời đều hợp nhất trong "tinh thần và chân lý."

Trong tinh thần và trong chân lý, thiếu phụ Canaan đến nài xin và khấn hứa. Bà có thể đã nghe Chúa dậy, hay chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện. Hoặc bà mới chỉ được nghe danh Giêsu qua các lời đồn xa gần. Nhưng bà tin và đó là yếu tố thúc giục bà mạo hiểm đến gặp Chúa, dù bà là người lương. Chúa thoạt như hắt hủi để thử thách, nhưng khi nhậnra một đức tin trong lành và vững mạnh nơi bà, Chúa mủi lòng phán "Bà cầu sao thì được như vậy". Bà không phải là người lương thứ nhất được ơn lạ. Tể tướng Naaman thời tiên tri Êlisha, và bà góa thời tiên tri Êlia đã được hưởng ơn lành Chúa ban cũng vì lòng tin mạnh mẽ.

Hans Kung, một thần học gia cấp tiến thời danh thập niên 60, gần đậy đã bị giáo hội lên án vì những chủ trương sai lầm và trái ngược với giáo huấn của Hội thánh. Hans Kung phân tích mỏng lời Chúa và hiểu một cách rời rạc và méo mó nên chủ trương là Chúa chỉ được sai đến với người Do Thái. Ông không hình dung ra một Giêsu giữa dân Samari, trước viên quan người lương và ơn lành bà xứ Canaan đã nhận được. Ông giới hạn lời "Các con đừng vội đến các làng dân ngoại, đừng vào thành Samaria, hãy đến với các chiên lạc Israel trước" (Mt 10,50) để đề xướng thuyết kỳ thị và cảnh con yêu con ghét torng sứ mạng cứu thế của Chúa. Ông quên điều kiện tiên quyết Chúa đòi phải có là một đức tin mạnh và tâm thành.

Các tông đồ, ý thức lời truyền "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần", đã thực thi sứ mạng truyền giáo và hào hùng lấy máu đào minh chứng niềm tin. Niềm tin này đã được chuyển giao đến chúng ta. Niềm tin này sẽ bị mai một và phôi pha nếu chúng ta kiêu kỳ, hãnh diện vì là "con dòng cháu giống" hay "lá ngọc cành vàng" để khinh khi người khác. Niềm kiêu hãnh này giết chết đức tin và đưa chúng ta đến án phạt và ngõ cụt. Đang khi những người thu thuế, phường đĩ điếm và quân tội lỗi vào trời vì họ tin vào tình Chúa thứ tha, vì họ đấm ngực ăn năn và vì họ can đảm thân thưa "Xin tha cho con, kẻ tội lỗi".

Giang sơn của Chúa hay nước trời là gia sản chung của những ai biết đắm mình trong máu chiên gánh tội trần gian.

BÀ CÓ LÒNG TIN MẠNH NÊN ĐƯỢC NHƯ BÀ MUỐN
Mt 15, 21 - 28

Sr Magdalena Oanh, MTGQN

Đâu là đức tin Công giáo của bạn giữa cuộc sống đầy thách đố hôm nay. Đặc biệt khi đứng trước những vụ scandals trong Giáo hội. Bạn còn tin vào Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Giáo hội nữa không? Nhưng trước khi trả lời câu hỏi này, xin mời bạn hãy cùng tôi đi sâu vào định nghĩa thế nào là "Tin". Đức tin là hạt giống Thiên ân. Hạt giống đức tin được vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. "Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo" (ĐHY Nguyễn Văn Thuận).

Thật vậy, người phụ nữ Canaan tin Đức Giêsu là con vua Đavid, Đấng có quyền năng chữa con mình khỏi bị quỷ ám. Bất chấp sự kỳ thị, bà nài van Đức Giêsu đoái thương con mình. Đức Giêsu vẫn lặng thinh. Sự lặng thinh ấy không làm bà nhụt chí. Kiên trì cầu xin, bà đã làm xiêu lòng các tông đồ. Các ông ngỏ lời xin Đức Giêsu can thiệp, nhưng Ngài một mực khước từ cách lạnh lùng:"Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi". Ngã lòng ư, bỏ cuộc ư? Người phụ nữ can trường đã nhẫn nại nài van Chúa cách khiêm tốn, tín thác. Bà chấp nhận sự thấp bé phận người dân ngoại và xác tín mạnh mẽ vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa luôn bao phủ trên nhân loại. Đức Giêsu cảm khích trước lòng tin kiên vững của người phụ nữ dân ngoại, Ngài đã tuyên nhận đức tin của bà làm nên phép lạ như lòng bà mong ước. Đức tin bà vững mạnh nhờ bén rễ sâu trong vùng đất khiêm nhường, nhẫn nại, phó thác và cậy trông. Bà đã vượt qua những gì người khác xem là nghịch lý, khó chấp nhận. Bà đón nhận sự thinh lặng của Thiên Chúa, sự chối từ, sự lạnh nhạt của Ngài cách kiên trung.

Quả thật nơi bà ngời sáng một đức tin tinh ròng. Đức tin không dựa trên sự trao đổi hai chiều "qua-lại". Nhưng là niềm tin vì Tin, vì Yêu, vì trọn tình tín thác. Nếu chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa giữa những may mắn, giữa bầu khí hạnh phúc thánh thiện trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, hay giữa sự thành công trên bước đường sự nghiệp, thì vô tình chúng ta biến Thiên Chúa thành vị thần hộ mệnh hơn là nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc đích thực xuyên qua mọi gian nguy thử thách cuộc đời. Vậy một khi bạn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, xin hãy xác tín rằng Thiên Chúa đang kiện toàn chi thể của Người qua những thương tích, sau cuộc chiến đấu đầy cam go giữa sự giằngn co của sự giòn mỏng phận người với thiên chức làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện. Ngài chỉ lặng thinh, chờ đợi sự lớn mạnh đức tin nơi con cái của Người, để một khi đức tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa, vào Giáo hội lớn mạnh mẽ, sẽ làm nên phép lạ kỳ diệu trong lòng xã hội, Giáo hội, gia đình chúng ta.

Cùng suy niệm mẫu gương đức tin can trường của người phụ nữ xứ Canaan, chúng ta hãy cùng nhau trả lời câu hỏi về niềm tin bằng chính hành động cụ thể thực tiễn trong vai trò một Kitô Hữu giữa môi trường sống.

Lạy Chúa, Ngài là Đấng thấu suốt lòng trí chúng con. Ngài là Người Cha nhân ái, là Người Mẹ dịu dàng và là Người Thầy dạy đức tin cho chúng con. Xin ban thêm sức mạnh tình yêu trên chúng con, giúp chúng con nên can trường trong trận tuyến niềm tin Công giáo. Để qua những thử thách đức tin, chúng con càng kiên trung sáng ngời để chứng minh cho thế giới về khuôn mặt đích thực của niềm tin Kitô Giáo luôn sống động, đầy lòng khiêm nhường, tín thác và đầy sức mạnh biến hóa mọi vết thương Giáo Hội nên hào quang chiến thắng rạng ngời tình yêu: cảm thông, chia sẻ và vô vị lợi.

NIỀM TIN CHỊU THỬ THÁCH
Mt 15, 21 - 28

Lm Bùi Quang Tuấn CSsR

Elvire là con gái út trong một gia đình nghèo. Cô ước mơ trở thành cô giáo. Cô xin học bổng và ghi danh tại một trường Cao đẳng Sư phạm. Nhà trường chấp thuận với điều kiện: cô phải luôn luôn giữ điểm cao trên trung bình.

Nhập học. Giáo sư dạy Triết lớp cô là một người vô thần. Mỗi lần nói về Giáo hội hay Đức Kitô, ông luôn tìm cách che đậy hay xuyên tạc. Elvire cảm thấy bất bình. Cô biết rằng nếu phản đối giáo sư, cô sẽ khó tránh khỏi việc lãnh về những con điểm không tốt.

Thế nhưng, lòng tin yêu Chúa Giêsu đã thúc bách cô. Nhiều lần cô can đảm giơ tay phát biểu. Có khi cô còn nói: "Thưa thầy, điều đó không đúng" hay "Em không đồng ý".

Đôi lúc cô cảm thấy đuối lý trước đầu óc thông thái và “cáo già” của ông thầy. Thế nhưng, trong các lời phát biểu của cô luôn ánh lên tia sáng của niềm tin, thứ niềm tin ôm ấp chân lý. Điều nầy khiến người ta suy nghĩ.

Elvire không thích thú gì khi đương đầu với thầy mình. Nhưng cô không thể sống theo kiểu "nín thở qua cầu". Thấy thế, các bạn cũng tìm cách khuyên ngăn, nhưng họ không thành công.

Thời gian trôi qua. Kỳ thi cuối khóa đã đến. Giây phút nhận kết quả mới hồi hộp làm sao. Elvire và các bạn mỗi người được phát một phiếu điểm. Tay cô run run mở phiếu. Chợt cô reo lên: "Điểm A".

Thành quả cuối cùng trong lớp Triết học của Elvire là điểm tối đa.

Câu chuyện người con gái có tên Elvire khiến tôi không khỏi tự vấn: nếu rơi vào trường hợp tương tự, liệu tôi có đủ tinh tế và can đảm nói lên niềm xác tín của mình không, hay tôi sẽ làm ngơ cho qua chuyện?

Nếu hành trình đức tin gặp phong ba thách đố, phải chọn lựa giữa giá trị Phúc Âm và lợi lộc trần gian, liệu tôi có dám đặt chân lý Tin Mừng lên trên tất cả không?

Khi phải đương đầu với khó khăn, cô đơn, vùi dập, từ khước..., liệu tôi có vững lòng đi theo sự thật Giêsu cho đến cùng không?

Qua việc tự vấn, tôi khám phá ra rằng mình dễ hèn nhát tránh né làm chứng cho niềm tin. Đôi khi vì một chút danh dự, tự lợi, hay địa vị tôi dễ rơi vào cảnh sống như kẻ vô thần. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng những lần mình can đảm đáp trả tiếng gọi của Tin mừng là những khi mình sống bình an và phong phú nhất. Những lúc đó tôi thấy mình cũng đạt được điểm tối đa như Elvire vậy.

Thế ra, kiên trung sống theo chân lý, bền đỗ bước trong niềm tin, người ta sẽ gặt hài được hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Chính câu chuyện người đàn bà xứ Canaan trong Thánh Kinh cũng minh chứng cho điều đó.

Hôm ấy, Đức Giêsu đi lên mạn cực bắc của nước Do thái, vượt qua biên giới Galilê để tiến vào vùng Tyrô và Sidôn. Ngài muốn tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Một người phụ nữ ngoại giáo chạy theo và kêu cầu Ngài cứu chữa cho con gái bà đang bị quỷ ám.

Trước lời khẩn nguyện chân thành và tha thiết của người mẹ, Kinh Thánh kể, Chúa Giêsu "không đáp lại một lời nào".

Tại sao Ngài im lặng? Tại sao Chúa Giêsu làm thinh trước một lời cầu xin chính đáng? Có lẽ lắm khi trong cuộc đời tôi cũng đặt vấn đề như thế.

Nhiều lần Chúa Giêsu đã làm phép lạ để tỏ mình cho dân chúng. Phép lạ đóng vai trò như một dấu chỉ. Thế nhưng lắm khi người ta lại đọc sai dấu chỉ đến nỗi thay vì nhận chân Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, họ lại khinh thường và rêu rao Ngài dùng quyền ma quỉ để làm phép lạ (Mc 3,22). Có khi người ta lại suy tôn phép lạ như nhu cầu thiết yếu và xem Chúa Giêsu là cái máy cung cấp. Thế nên có lần Ngài phải chạy trốn lên núi (Gn 6,15) hoặc cấm không cho họ nói lại những phép lạ Ngài làm (Mc 8, 26).

Thái độ "dè đặt" của Chúa Giêsu thật đáng suy nghĩ: Ngài không đến để phô trương các việc lạ lùng hòng thu hút niềm thán phục nơi quần chúng và sự mến mộ của kẻ hiếu kỳ. Ngài đến là để thực thi Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó là tìm kiếm chiên lạc của Israen.

Yvon Daingeault có viết: "Israen của Chúa Giêsu là Israen của lòng tin, qui tụ những ai có niềm tin vào Ngài. Trong Israen đó, ta nhìn thấy một viên bách quản Rôma, một người cai trị có những lối sống không mấy rõ ràng, một phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm như Madalêna, và một đám đông không kể xiết những người tội lỗi. Trong đó có chúng ta hợp thành con cháu thật sự của Abraham.

Chúa Giêsu không muốn loại trừ người phụ nữ Canaan khỏi Israen này. Đây là dân mà Chúa Cha giao phó cho Ngài. Chúa Giêsu thánh đố bà tiến đến đức tin chân chính để có thể gặp được Ngài. Bà hiểu điều này và đã diễn tả niềm tin mới của mình bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm nhượng
".

Đây là phần lạ lùng nhất của đoạn Phúc âm: khi nghe Chúa Giêsu nói "Người ta không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho đàn chó," bà đã khiêm tốn thưa:"“Vâng, lạy Ngài, nhưng chó cũng được ăn những bánh vụn rơi xuống từ bàn của chủ nó" (Mt 15, 26-27).

Không biết trong hoàn cảnh như thế liệu đức tin của tôi có đủ mạnh để khiêm tốn và bền chí cầu xin, hay tôi sẽ quay ra than trách: không ban ơn lại còn xỉ vả bêu nhuốc nghĩa là thế nào? Chắc tôi sẽ tự ái, khó chịu mà bỏ Chúa mất.

Thái độ kiên trì khẩn nài và vững tin trước thách đố của người đàn bà Canaan đáng cho tôi học hỏi biết bao. Nhờ kiên tâm bám vào Chúa mà bà đã được điểm"A". Chúa Giêsu tuyên bố: "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được như vậy" (Mt 15,28).

Tôi ước ao được điểm A như thế lắm. Song trước tiên, có lẽ tôi phải biết thốt lên với tất cả lòng thành lời nguyện như người phụ nữ ngày xưa : "Kyrie eleison - Xin Chúa thương xót con".

KHI LŨ CHÓ ĐỒNG BÀN VỚI ÔNG CHỦ
Mt 15, 21 - 28

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Thời Chúa Giêsu, Tia và Xiđon- ngày nay là miền nam Libăng, được xem là miền đất dân ngoại. Vì thế, việc Chúa Giêsu và các môn đệ lui về đây không chỉ để tránh tai mắt của nhóm Biệt phái hay tránh sự cuồng nhiệt của dân chúng muốn tôn Ngài làm vua ngay sau sự kiện hoá bánh ra nhiều (x. Ga 6, 15), mà còn mang một ý nghĩa thần học theo dụng ý của tác giả Mátthêu. Theo đó, ơn cứu độ lẽ ra chỉ dành cho Israel, nhưng vì họ từ chối, thì nay ơn cứu độ đó được mang đến cho dân ngoại mà người phụ nữ Canaan là một đại diện.

Nói đến Canaan, không người Dothái nào lại không biết đến mảnh đất mà cha ông họ đã chiếm làm lãnh thổ cho riêng mình. Miền đất này được xem là miền đất hứa, miền đất của sữa và mật, vì thế, để chiếm được nó, người Dothái phải đổ không ít xương máu mới có được. Chính vì thế, nói đến miền đất Canaan và con người Canaan là không chỉ nói về một chiến tích, nói về một thời hào hùng của dân tộc mà còn nói đến một mối thù “truyền kiếp” giữa hai dân tộc. Người Dothái vốn xem người Canaan là dân ngoại, là những kẻ dơ bẩn cần phải tránh xa bao có thể. Sự khinh thường này đôi khi thái quá và làm cho hố ngăn cách ngày càng thêm sâu đậm khó có thể hoà giải một sớm một chiều. Sự kiện người phụ nữ Canaan đến gặp Chúa Giêsu và các môn đệ cũng không nằm ngoài hố ngăn cách này.

Trước khi đến gặp Chúa Giêsu, chắc hẳn người phụ nữ Canaan đã lường trước những thách đố mà mình sẽ gặp khi “chạm trán” với những người mà bà biết họ chẳng ưa thích gì khi có sự hiện diện của mình. Nhưng biết làm sao được. Bởi động cơ dẫn lối đưa đường bà đến gặp Chúa Giêsu chính là cô con gái yêu quý của bà đang ngày đêm khổ sở vì bị quỷ ám. Vì tình mẫu tử, bà đã vượt qua mọi cản ngăn để đến gặp Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ cứu giúp con bà.

“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”. Không một lời lên tiếng. Im lặng bao trùm. Quả đúng như những gì bà đã lường trước. Người bà đang cần sự giúp đỡ chẳng mặn mà gì. Sự im lặng của Người đến khó hiểu. Còn các môn đệ của Chúa Giêsu xem ra cũng khó chịu khi có sự hiện diện của bà, nên không ngừng hối thúc Thầy mình đuổi bà ấy về cho khỏi chướng tai gai mắt. Mặc dù vậy, người phụ nữ Canaan vẫn kiên trì. Bà biết mình phải làm gì trong trường hợp không lấy gì làm dễ chịu này.

“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Tiếng bà lại vang lên khi toàn thân bà phục xuống bái lạy Chúa Giêsu với hy vọng Người sẽ đoái thương. Phủ phàng thay, câu trả lời của Chúa Giêsu, vô hình trung, như gáo nước lạnh giữa trời đông xối vào mặt bà. “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Cho đến lúc này, Chúa Giêsu vẫn trung thành với điều mà Người đã nói trong lúc khai mạc sứ vụ rao giảng Tin mừng. Theo đó, sứ mệnh của Người chỉ dành cho “con chiên lạc nhà Israel” mà thôi. Vì thế, câu nói của Chúa Giêsu xem ra sỗ sàng, khiến người khác phật lòng nhưng lại nói lên lòng mong mỏi của Người dành cho nhà Israel.

Liên tiếp phải hứng chịu sự thật phủ phàng, người phụ nữ Canaan không mảy may dao động hoặc tức giận tháo lui. Trái lại, bà còn dùng ngay chính sự thật phủ phàng này để trả lời Chúa Giêsu một cách hết sức khôn khéo và tế nhị. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thưa bà Canaan! Chúng tôi không biết tên bà. Nhưng có thể tên bà là đại diện cho một dân tộc hay đại diện cho toàn khối dân ngoại. Câu nói của bà không chỉ là câu nói hay nhất, tế nhị và khôn khéo nhất mà còn là một lời tuyên xưng niềm tin của bà đối với người mà bà đang đối diện. Chính niềm tin mãnh liệt của bà đã làm cho Chúa Giêsu kinh ngạc nếu không nói nó gây nên một cú xốc cho Người. Thưa bà Canaan! Với niềm tin mãnh liệt, bà đã thắng Thiên Chúa.

“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Lời của Chúa Giêsu không chỉ là lời tán thưởng, lời ban bình an và xua đuổi tà thần mà còn là lời xoá đi mọi trở ngăn, mọi thứ lề luật nhỏ nhen thấp hèn do con người tạo nên. Từ đây, nhờ niềm tin, người phụ nữ Canaan - một hạng dân ngoại, một kẻ dơ bẩn được Thiên Chúa đón nhận, cho làm bạn nghĩa thiết với Người. Niềm tin mãnh liệt đó đã làm cho bà trở nên người đáng được tôn vinh, làm cho bà từ một khách lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa và còn hơn thế nữa, từ nay “lũ chó con” kia được đồng bàn với chủ, được hưởng mọi ân lộc của chủ, được hưởng ơn cứu độ chứ không phải chỉ ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.

Người phụ nữ Canaan là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chính đức tin của bà làm cho mỗi người chúng ta phản tỉnh. Với những gì mà người phụ nữ Canaan đã làm, chúng ta hãy xem chúng ta đang ở đâu trong bàn tiệc Thiên Chúa, trong Giáo hội và trong lòng nhân loại?

VỮNG VÀNG TIN TƯỞNG
Mt 15, 21 - 28
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Có một giai thoại kể rằng : Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm, may quá anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy dù nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.

Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh thấy choáng váng mặt mày vì vực thẳm sâu, anh cũng biết rõ là không thể bám vúi như thế này mãi được, vì thế, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin : “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống : “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn biết con có thực sự tin là Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay : “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi, con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói : “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn : “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”.

Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không ? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không ? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu chuyện sau :

Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện : Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà, trong khi những ngọn lửa phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại, rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau : không thể nào liều lĩnh đi vào, trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa sổ trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.

Cha nó thấy nó, ông quát to : “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp : “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát : “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.

Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hình ảnh diễn tả người Ki-tô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao ? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình : “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời : “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không ? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc chúng ta thật cần đến Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chữa con gái bà.

Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện : Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.

VỤN BÁNH RƠI
Mt 15, 21 - 28
Sr Mai An Linh, OP

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt 3 bài đọc Chúa Nhật XX năm A hôm nay, đó là “qua dân tộc Do Thái, ơn cứu độ đã đến với dân ngọai”. Qủa thế, ngay bài sách tiên tri Is.56,1.6-7 Ngôn Sứ đã nói đến viễn cảnh lương dân nhập đòan cùng con cái Abraham, đến bài đọc II thư gửi tín hữu Rm.11,13-15.29-32 Thánh Phaolô cũng xác định rằng Ngài được tuyển chọn là để cho dân ngọai. Và bài Tin mừng Chúa Giêsu nói tới việc Ngài được sai đến cho con cháu nhà Israel nhưng vì họ cứng lòng mà dân ngọai được mời gọi.

Chúa Giêsu đến là để tìm những con chiên lạc nhà Israel, nhưng ở đây Chúa Giêsu chữa bệnh cho con người phụ nữ Canaan. Thật ra, Ngài chỉ làm phép lạ này sau cuộc chối từ dai dẳng, như thế Ngài chỉ làm vì bất đắc dĩ mà thôi. Trước khi làm Ngài còn muốn xác quyết mạnh mẽ việc tuyển chọn Israel trước mặt các môn đệ và ngay chính dân Do Thái cứng lòng tin nhất “ Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel mà thôi”, phải phân phát bánh, nghĩa là Tin mừng cho “con cái” nghĩa là cho kẻ thừa tự lời hứa trước đã. Vì thế, Đức Giêsu chỉ nhượng bộ trước lời cầu xin của người đàn bà sau khi bà đã nhận ra sự chia cách do Thiên Chúa muốn giữa dân Ngài và mọi dân khác. Sự chia cách ấy bao giờ cũng linh thánh. Như vậy, Thiên Chúa lựa chọn dân Do Thái là vì dân tộc khác.

Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái là để cho các dân tộc, cho nên ơn cứu độ có tính phổ quát. Chúa Giêsu nói với bà như là sự từ chối “ Không nên lấy bánh của con cái mà cho lòai chó”. Ngài nói như thế để cảnh cáo cho người Do Thái biết rằng : Thiên Chúa đã ưu tiên cho họ mà họ từ chối, nên ơn cứu độ sẽ được ban cho các dân tộc. Trong kế đồ cứu độ, có nhiều giau đọan, Đức Giêsu đến đào tạo một nhóm người rồi sau đó là giai đọan của Thần Linh, Tin mừng được rao giảng cho mọi dân tộc vì mọi người đều là con cái của Abraham nếu có lòng tin vào Đức Giêsu (x.Rm11,13…).

Đó là Israel của lòng tin, Israel qui tụ những kẻ tin và trong đó chúng ta thấy có viên quan bách quản Rôma, một người phụ nữ Samari, một đám đông không kể xiết tòan những người tội lỗi, nên Chúa Giêsu không muốn lọai trừ người phụ nữ Canaan này, Chúa chỉ thách thức bà đi đến đức tin chân chính để bà có thể đến với ngài. Và chính bà cũng hiểu điều này và diễn tả niềm tin mới bằng một công thức thật cảm động, đầy niềm vui và lòng khiêm tốn “ những chó con cũng được ăn những vụn bánh rơi từ bàn rớt xuống”.

Bà kiên trì nài nỉ với Chúa Giêsu không hề nao núng, dù bị các môn đệ từ chối. Nhưng bà tin là Chúa Giêsu, Đấng tốt lành nên không nản chí và bà còn kêu to lên “ Lạy Ngài là con vua David xin thương tôi”, tước hiệu “ con Đavid” có ý nói Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đến để thực hiện lời hứa với nhà Đavit. Điều này chính ra người Do Thái phải là người loan báo cho dân ngọai, thì giờ đây người dân ngọai lại rao giảng cho người Do Thái.

Nhìn vào thái độ của người phụ nữ chúng ta hãy nhìn lại mình, chúng ta có hay than phiền về Thiên Chúa khi chúng ta gặp thử thách không ? Đức tin của chúng ta lớn bao nhiêu ? Chúng ta đòi Chúa giải quyết những công việc mà bản thân chúng ta không giải quyết được, chúng ta đòi Thiên Chúa phải ban cho chúng ta điều này điều kia mà chúng ta không xin Ngài giải thóat chúng ta khỏi sự dữ.

Người phụ nữ Canaan đã hiểu rằng không gì ngòai lòng tốt và sự thánh thiện của một ngôn sứ có thể giải phóng được bà, bà kiên trì cầu xin cả trong lúc bà không được niềm nở đón tiếp.Lạy Chúa, Chúa đã đón nhận đức tin người phụ nữ ngọai giáo để nói lên tính cách phổ quát của ơn cứu độ. Xin cho chúng con lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin mừng đến cho muôn người, để Thánh Ý Chúa được thể hiện mau chóng.

TIN MỪNG KHÔNG BIÊN GIỚI
Mt 15, 21 - 28
Lm Trần Thanh Sơn

Đọc lại lịch sử Giáo Hội và lịch sử thế giới, chắc nhiều người trong chúng ta đều biết đến cuộc Thập Tự chinh đẫm máu chống lại người Hồi Giáo vào những năm 1095-1291, bước sang thế kỷ 16 là cuộc chiến giữa người Tin lành và Công giáo tại Âu Châu, rồi cuộc đối đầu giữa những người quá khích Ấn giáo với những người theo các tôn giáo khác tại Ấn Độ…

Và Mahamat Ganhdi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Ganhdi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.

Những câu chuyện trên đây muốn nói lên một trong những thảm trạng đau thương của lịch sử nhân loại hiện nay. Đó là sự xâu xé do sự bất khoan dung tôn giáo gây nên. Thế đó, con người luôn bị cám dỗ nhân danh niềm tin, nhân danh Thượng Đế của mình để bách hại và loại trừ người khác.

Thời Chúa Giêsu, những người Biệt phái cũng có thái độ tương tự. Nhân danh lề luật, nhân danh Thiên Chúa, họ đã kết án và loại trừ nhiều người, nhất là những kẻ bé mọn, những người dân ngoại, những người mà họ cho là tội lỗi.

Thế nhưng khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do Thái. Chúa cũng đã đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn quy tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Điều này được thể hiện rõ trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.

1. Ơn cứu độ được ban cho mọi người
Để thấy rõ điều này, chúng ta cùng đọc lại các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Trước hết, bài đọc một được trích đọc hôm nay, thuộc phần thứ ba trong sách của ngôn sứ Isaia (56, 6-7). Đoạn này được viết trong bối cảnh dân Do Thái vừa từ nơi lưu đày trở về. Tại Đất Hứa, và ngay chung quanh thành Thánh Giêrusalem đã có rất nhiều người dân ngoại sinh sống. Do đó, vấn đề đặt ra là họ phải đối xử với những dân tộc này như thế nào. Hơn nữa, những người ngoại bang này có được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không? Đứng trước những vấn nạn đó, vị ngôn sứ được mạc khải của Thiên Chúa đã đưa ra cho họ một câu trả lời thật rõ ràng: “Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện, Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Như thế, ngay từ trong Cựu ước, mạc khải về tính phổ quát của ơn cứu độ đã bắt đầu được hé mở.

Tính phổ quát này của ơn cứu độ đã trở nên hiện thực với việc xuất hiện của Chúa Giêsu. Ngay từ khi Giáng Sinh thì một trong những người đầu tiên đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chính là những đạo sĩ người dân ngoại đến từ Đông Phương (x. Mt 2, 1-12). Rồi hôm nay đây, trong lúc những người đồng hương Nazareth với Chúa Giêsu đã không tin Ngài (x. Mt 13, 53-57); các Luật sĩ và Biệt phái thì dựa vào các lệ truyền của tiền nhân để huỷ bỏ chính Lời Thiên Chúa (x. Mt 15, 1-9). Họ đang tranh luận với Ngài về luật “sạch” và “” (x. Mt 15, 10-20). Họ tự hào là công chính vì có lề luật, để loại bỏ những người mà họ cho là dân ngoại, là “”, thì ngay lúc đó, một người phụ nữ người Canaan, một thứ “dân ngoại” chính gốc đã hết lòng tin tưởng và nhận được ân ban của Đức Giêsu (x. Mt 15, 21-28). Đây là khúc mở đầu, sau khi Phục Sinh, trước khi về trời, thì di chúc cuối cùng của Đức Kitô cho các tông đồ là ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân (x. Mt 28, 19-20).

Vâng lời Thiên Chúa, các tông đồ đã lên đường rao giảng cho hết mọi dân tộc. Chính thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma chúng ta vừa nghe, cũng khẳng định: “Tôi là Tông đồ các Dân ngoại”. Và ngài còn cho thấy, lẽ ra Tin mừng phải được loan báo cho dân Israel là dân được Chúa chọn trước, nhưng vì họ đã cứng lòng, không tin, nên giờ đây, vị tông đồ đã quay sang loan báo cho anh em dân ngoại để họ được cứu rỗi “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót”. Dù vậy, thánh nhân cũng hy vọng chính khi thấy dân ngoại tin nhận Đức Kitô và được ơn cứu độ, thì lúc đó dân Israel cũng sẽ quay lại để được ơn cứu độ “cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót”.

Như vậy, ơn cứu độ không thể bị giới hạn bởi bất cứ một dân tộc nào, cho dù đó là dân Chúa chọn; hay bởi bất cứ miền đất nào, dù đó là Đất Hứa. Tuy nhiên, mặc dù là ơn của Thiên Chúa, nhưng để lãnh nhận được ơn cứu độ này, mỗi người chúng ta cũng cần thể hiện một thiện chí nào đó của mình.

2. Điều kiện để nhận lãnh được ơn cứu độ
Trước hết, chúng ta phải xác tín lại với nhau rằng ơn cứu độ là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô: “Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. (Rm 15, 29).

Kế đến, ơn cứu độ cũng đòi chúng ta một sự mở rộng cõi lòng, sẵn sàng đón nhận và hết lòng tin tưởng trong tinh thần khiêm hạ. Chúng ta có thể nhận ra được điều này trong lời cầu xin của người phụ nữ Canaan, khi bà xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Bà không hề nhân danh một điều gì khác ngoài lòng thương xót của Đức Giêsu: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi” Đây là một lòng tin trong sự phó thác hoàn toàn nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ không hề dựa vào bất cứ điều gì của bản thân mình. Khi Chúa nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó” thì bà đã đáp lại một cách tuyệt vời: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng đựơc ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”. Trước lòng tin mạnh mẽ đó, Đức Giêsu đã làm cho bà những gì bà muốn: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”. Có lẽ đây là một trong những lần hiếm hoi, mà Chúa Giêsu đã “thua” trong các cuộc tranh luận. Ngài đã thua trước lòng tin và sự khiêm hạ của người phụ nữ Canaan.

3. Chúng ta hôm nay
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải tự nhìn lại chính mình. Có khi chúng ta đang đi vào vết xe cũ của những người Biệt phái xưa kia. Chúng ta tự hào mình là một kitô hữu, được rửa tội từ bé, mình là “đạo dòng, đạo gốc” rồi loại bỏ những người khác. Đây quả thật là một điều nguy hiểm, vì nếu chúng ta không có được một đức tin, lòng khiêm hạ và sự kiên nhẫn như người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng, thì nguồn gốc đó không thể cứu được chúng ta. Điều thứ hai chúng ta rút ra được từ lời Chúa hôm nay đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài không loại trừ ai. Vì thế, để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy biết tha thứ và sống bao dung với người khác, đón nhận người khác không phân biệt lương giáo, kể cả những người không cùng ý kiến với chúng ta như lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn đọc hàng ngày: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”.

Đối với các em thiếu nhi, các con cần tập sống lòng bao dung đó ngay từ bây giờ, cụ thể là không cãi nhau, đánh nhau, và sẵn sàng chơi với hết mọi bạn, nhất là những bạn không có ai chơi cùng. Các con hãy luôn giữ nụ cười trên môi đối với hết mọi người.

Nếu tất cả cộng đoàn chúng ta sống đức tin cách cụ thể như vậy, nghĩa là, luôn mở rộng vòng tay đón nhận người khác đến với chúng ta. Lúc đó, chắc chắn chúng ta cũng nhận được lời hứa của Chúa: “Này con, con có lòng mạnh tin. Con muốn sao thì được vậy”. Amen.

CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ
Mt 15, 21 - 28

Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ngôn sứ Isaia đã từng khiển trách người Do Thái:” Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta “. Thời Chúa Giêsu đã có biết bao người ở ngoài, nghĩa là những người bị coi sống ngoài lề xã hội, sống xa Đền Thờ, chưa hề thuộc bất cứ một lề luật nào của Môsê nhưng họ lại có lòng sám hối, ăn năn và tin tưởng sâu xa hơn những người được coi là ở trong, những người có đạo, những người Do Thái. Chúa Giêsu đã từng nói:” Không phải những kẻ thưa lạy Cha, lạy Cha ngoài môi miệng là được rỗi đâu “…

Nếu xét cách thường tình, người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Mt 15, 21 - 28 là một người bị người Do Thái khinh bỉ, miệt thị. Bà chỉ là một người vô đạo không hơn không kém. Nói theo ngôn ngữ của người Do Thái, bà là người ở ngoài, người không biết Chúa, người không hề biết một tí gì về lề luật của Môsê. Tuy nhiên, bà đã sống niềm tin mãnh liệt, niềm tin mà Chúa Giêsu đã có lần khen viên bách quản ( Mt 8, 10.13 ). Lòng tin của bà được biểu lộ rõ nét khi bà hoàn toàn phó thác vào quyền năng của Chúa, bà trao tuyệt đối sinh mạng con bà cho Chúa. Bà đã sống trong sự quan phòng của Chúa, dù rằng bà không hiểu thế nào là sự quan phòng, thế nào là sự phó thác: sợi tóc trên đầu rơi xuống, hoa huệ ngoài đồng, con chim trên trời vv…Xem ra bà mù tịt về những điều ấy và bà đang rơi vào chỗ tuyệt vọng. Càng tuyệt vọng, bà càng chạy tới Chúa Giêsu…Bà đã quên đi ánh mắt khinh bỉ của người Do Thái, quên đi bà là người ngoại. Bà van nài, kêu van Chúa. Sự nài nỉ, cầu cứu của bà đối với Chúa nói lên sự kiên trì và lòng tin sâu xa của bà. Người Do Thái sẽ im lặng trước lời van xin khẩn thiết của bà. Các môn đệ tôn trọng truyền thống, nhưng trước sự nài nỉ khó chịu của bà, họ cũng chẳng thích gì, nên họ gợi ý với Chúa:” Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”( Mt 15, 23 ). Quả thực, các môn đệ chỉ muốn được an thân. Còn Chúa Giêsu, Người sẽ không làm thinh, không nín lặng trước lời khẩn cầu tha thiết đầy lòng tin của bà. Chúa bằng một lời đã phá đổ bức tường nhỏ nhen do người Do Thái ích kỷ dựng nên. Người đã gây sửng sốt cho mọi người có mặt lúc đó, kể cả các môn đệ của Người nữa. Chúa nói với bà:” Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”( Mt 15, 25 ). Đây là cuộc gặp gỡ quan phòng của Chúa.

Người có niềm tin hay không có niềm tin, không hệ trọng ở chỗ mang danh hiệu Kitô hữu hay người có đạo, người bên trong mà hệ tại ở lòng tin. Sống bề ngoài hời hợt, sống bên ngoài cho có lệ, giữ chi li lề luật cách máy móc như người Biệt phái, tất cả những hình thức ấy là giả hình. Chúa chán ghét và lên án những kiểu cách giữ đạo như thế. Sống đức tin là tin vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, tin vào tình yêu không biên giới, vô vị lợi của Chúa, tin vào tình người, tin vào lẽ sống và ý nghĩa của cuộc sống. Tất cả những sắc thái đó biểu lộ con người có đức tin và đức tin sẽ dẫn con người tới gặp gỡ Chúa.

Giữa sa mạc của cuộc đời, người Kitô hữu được mời gọi thắp sáng ngọn đuốc đức tin để tiến bước. Giữa một thế giới sống hận thù, ghen ghét và chiến tranh, người có đức tin được mời gọi sống quảng đại, yêu thương và hòa bình. Giữa một thế giới thất vọng và tuyệt vọng, người Kitô hữu được mời gọi sống hy vọng và sống niềm tin. Sống như thế, người Kitô hữu mới thực sự sống niềm tin của mình và họ mới thực sự được gọi là môn đệ Chúa.

Chúa luôn mời gọi nhân loại sống yêu thương. Con người nhiều khi vẫn có khuynh hướng tự mãn cho ta là hơn người. Người đàn bà Canaan bị người Do Thái khinh bỉ và các môn đệ sợ bị liên lụy, bị quấy rầy thì Chúa lại ca ngợi, tôn vinh bà. Người ở trong hay người ở ngoài không phải là vấn đề mấu chốt nhưng chỉ khi con người biết sống niềm tin sâu xa, chân thật mới quan trọng. Thánh Phaolô đã chẳng nói:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết đó sao? ”. Không ai là trung tâm của vũ trụ và không ai là một hòn đảo cả. Chúa kêu mời môn đệ của Người hãy sống :” Hiền lành và Khiêm nhượng “. Thập giá là cây ác nghiệt do con người nghĩ ra, nhưng chính cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu lại qui tụ mọi người dưới chân Người, xung quanh Người và bên Người để lãnh nhận ơn cứu độ của Người.

Xin Chúa ban cho chúng con lòng tin sắt đá để chúng con luôn tin vào Chúa là Chúa của Tình yêu.

LÒNG TIN CỦA NGƯỜI NGOẠI GIÁO
Mt 15, 21 - 28

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, con người không khỏi nửa cười nửa khóc, hoặc ngạc nhiên đến lạ lùng trước thái độ của Chúa Giêsu. Có lúc Chúa tỏ ra rất nghiêm khắc nhưng có lúc Ngài cũng mềm lòng trước tâm tình dễ thương của con người, trước thái độ kiên trì, lời khẩn khoản thật khiêm tốn của con người. Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 21-38 hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Người đàn bà ngọai giáo xứ Canaan nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn” những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống “. Đây là thái độ hết sức khiêm tốn của người đàn bà ngoại giáo này. Thái độ của một người cầu nguyện với hết tâm hồn, với hết đức tin của mình.

Bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa đứa con gái của người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan bị quỉ ám. Ngưới đàn bà này bị dân Do Thái coi như ở ngoài, nghĩa là không thuộc về phe họ, do đó, đối với dân Do Thái bà là đồ bị chúc dữ và bị kinh bỉ.

Đức Kitô thương yêu mọi người, Ngài không loại trừ ai, không bỏ rơi ai, miễn là họ biết mở lòng ra, biết khẩn cầu Ngài và thật lòng muốn được Ngài cứu chữa. Con gái của người đàn bà Canaan bị quỉ ám, đang ở vào tình trạng hết sức tuyệt vọng: các thầy thuốc giỏi, danh tiếng đều bó tay, vô phương cứu chữa. Bà đã hoàn toàn tuyệt vọng theo mặt tự nhiên. Chính đức tin diễn tả ra nơi bà qua lời khẩn khoản nài van, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót và đã chữa lành con của bà được khỏi ngay lúc đó. Đức tin mạnh mẽ của bà cũng như đức tin của Viên Bách Quản khiến Chúa thay đổi ý định của Ngài. Bởi vì, Chúa Giêsu chỉ được Chúa Cha sai tới với con cái Israen, một dân tộc tự kiêu, tự hào vì là dân riêng của Chúa. Họ hãnh diện về đức tin của cha ông và của chính họ. Tuy nhiên, trước lòng tin mạnh mẽ và thái độ khiêm tốn cầu nguyện của người đàn bà, Chúa đã làm phép lạ để cứu chữa một người bị quỉ ám, không phải là dân Do Thái, là dân ngoại bị dân Do thái khinh chê và coi là đồ chó. Bà đã kêu xin Chúa thương xót cứu chữa con gái của bà. Rồi bà quỳ mọp xuống đất trước mặt Chúa Giêsu xin Ngài thương cứu giúp con bà, và với một thái độ hết sức khiêm tốn chấp nhận lời so sánh hết sức tủi nhục, so sánh mình với đồ chó. Bà đã có một đức tin rất mạnh mẽ như Viên Bách Quản, một đức tin son sắt thúc đẩy bà khẩn cầu hết lời, hạ mình chấp nhận những hất hủi, những tủi nhục, những khinh miệt có thể gọi được là tột độ đến thế. Bà đã có một đức tin sâu sắc để có thể chấp nhận những thử thách của Chúa Giêsu ban đầu. Bà không bực tức, không chán nản, không thất vọng, bà luôn chứng tỏ niềm tin mạnh mẽ và kiên trì.

Lời khẩn cầu của người đàn bà xứ Canaan thật khiêm tốn nhưng đầy tin tưởng và mạnh mẽ,kiên trì, phó thác. Do đó, Chúa Giêsu không nỡ từ chối. Đức Kitô đã ban cho người đàn bà Canaan được thỏa lòng mong ước, đồng thời công khai khen ngợi lòng tin của bà trước mặt các môn đệ. Chúa Giêsu muốn dạy con người về mẫu gương cầu nguyện : khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Mẫu gương về lời cầu nguyện và đức tin của người đàn bà ngoại giáo này gợi cho chúng ta xét lại thái độ cầu nguyện của chúng ta và đức tin của chúng ta ra sao mỗi lần chúng ta gặp những bất trắc, những thử thách nơi trần gian này. Liệu đức tin của chúng ta có mạnh mẽ hay thua kém nhiều người ngoại giáo và nhiều người lương ? Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tuy nhiên để diễn tả đức tin và để chứng tỏ đức tin, chúng ta :” Phải quỳ gối cầu xin ”( Pascal ). Trong mọi trạng huống của cuộc đời, dù cầu xin chưa được, chúng ta vẫn cứ kiên trì để cầu xin và khiêm tốn, van nài, tin tưởng và phó thác như người đàn bà Canaan. Chắc chắn Chúa sẽ nhậm lời chúng ta:” Cứ xin thì được. Cứ gõ thì mở. Cứ tìm thì gặp “. Chúng ta thực sự tin tưởng vào tình thương vô biên của Chúa.

Người đàn bà Canaan đã hoàn toàn tin vào sức mạnh quyền năng của Chúa. Bà tin, bà nhận được hồng ân cao quí của Chúa. Chúa đã chữa con bà ngay lúc bà tin khẩn khoan nài van. Và đây là một kinh nghiệm trong đời sống đức tin. Chúng ta đã có kinh nghiệm về đức tin như người đàn bà Canaan chưa ? Khi gặp khó khăn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta có đủ sáng suốt, can đảm, tin tưởng, phó thác xin Chúa cứu giúp không ? Chúng ta có coi Chúa là tất cả khi chúng ta cầu xin không ?

Lạy Chúa xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa. Amen.

“DÂN NGOẠI” CÓ LÒNG TIN MẠNH HƠN “GIUDÊU”!
Mt 15, 21 - 28

Anmai, CSsR

Tất cả những người “bén duyên” với việc rao giảng tin mừng trong lãnh vực giúp giáo lý dự tòng cho những “người ngoại” ắt hẳn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm tuyệt vời từ những “người ngoại” tìm đến Chúa. Với xã hội phát triển vượt bậc về kinh tế như ngày nay tưởng chừng con số gia nhập Kitô giáo sẽ chựng lại hay chỉ vài người nhưng thật may mắn khi còn nhiều và còn nhiều người “ngoại” bỗng nhiên cảm mến Chúa, cảm mến Đạo để tìm đến các lớp Dự Tòng của các giáo xứ để học giáo lý. Trong những người đấy thật sự là có những người học vì phải theo đạo vợ đạo chồng nhưng cũng trong những số ấy, không ít người “ngoại” xuất phát từ niềm tin thật trong lòng của họ.

Một học trò cũ đã bộc bạch với tôi : “Thưa Cha ! Thoạt đầu, vì anh ấy con đi học giáo lý để tìm hiểu về Chúa nhưng rồi sau khi đi học con thấy con tin Chúa nhiều lắm ! Nhất là sau khi rửa tội, con thấy con bình an hơn, cuộc sống của con thanh thản hơn trước. Con đã bớt đi tính tranh giành, hơn thua, ghen ghét. Hiện giờ thì anh ấy không quen con nữa nhưng con cảm ơn anh ấy vì chính anh ấy là người dẫn con đến với Chúa và Mẹ. Con nghĩ rằng anh là người dẫn đường cho con. Vẫn biết rằng chia tay với anh ấy con rất buồn nhưng con thấy con được rửa tội để theo đạo là con hạnh phúc rồi. Những tối khó ngủ, con đeo chuỗi Mân Côi mà đứa bạn tặng con trong ngày rửa tội (13.07.2008 tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) con thấy con ngủ ngon !”. Tôi không nghĩ ra và không ngờ học trò đã nói rất thật, thật tự đáy lòng và lương tâm của mình. Phải chăng đây là lòng tin kiên vững của một “dân ngoại” thời hiện đại.

Nếu có dịp, ai muốn “tai nghe mắt thấy” thì có thể đến với các lớp giáo lý dự tòng trong đó có lớp giáo lý ở Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải Dòng Chúa Cứu Thế dạy hay hay nổi tiếng nhưng Ban giảng huấn ở đây đã thu thập tất cả các chứng từ, các cảm nghiệm thật đơn sơ, thật chân thành tự đáy lòng của những “dân ngoại” khi họ tìm đến Chúa. Những lời chứng ấy, những niềm xác tín đấy hiện đang còn lưu giữ như lời chứng hùng hồn niềm tin vào Chúa giữa một thế giới mà dường như người ta muốn đẩy Thiên Chúa ra bên lề đời họ.

Với Cha Trương Bửu Diệp, Ngài khá nổi tiếng vì sự tử đạo của mình nhưng nổi tiếng hơn khi Ngài đã làm nhiều và nhiều dấu lạ cho mọi người. Khi đặt chân đến viếng Ngài ở Tắc Sậy, những người mà tôi được tiếp xúc, hỏi thăm đều cho biết : “Cha Bửu Diệp mắc cười lắm ! Ngài hay làm dấu lạ cho nhiều người nhưng đặc biệt Cha làm dấu lạ cho những người “lương” (“ngoại giáo”) không à ! Còn những người Công Giáo được ơn của Cha rất ít”. Đúng như lời những người ở đây nói khi tôi đi tham quan một vòng nhà thờ cũng như phần mộ của Cha. Hàng ngàn cái ghế đá dâng kính Ngài trong khuôn viên nhà thờ như nói lên lòng biết ơn Cha Bửu Diệp được đề tên nhưng đa số là của “người ngoại” vì có tên người dân nhưng không có tên Thánh như những con nhà “có đạo” mà ta thường thấy.

Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Cha Bửu Diệp đã ban ơn cho “dân ngoại” nhiều hơn con nhà “có đạo”. Nhiều người hàm hồ bảo rằng Thiên Chúa bất công, thiên vị, cho người ngoài chứ không cho con cái trong nhà !

Ở vùng đất Cần Giờ nhỏ bé nghèo nàn cũng thế ! Vị linh mục đặc trách đã, đang bị “ném đá” vì ngài đã cứu đói người ngoại nhiều hơn là con cái trong nhà ! Lẽ ra con cái trong nhà phải hiểu cho tấm lòng của vị mục tử khi quan tâm, chia sẻ cho “người ngoại” đàng này chia bè chia phái làm vơi đi cái lòng mến cha – con thuở ban đầu. Giờ này đây linh mục đặc trách khá đau đớn trước cách phân chia của mình. Ngài làm theo cách của Chúa Giêsu làm trong bài tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại.

Chúa Giêsu, thoạt đầu cũng nói thẳng với bà : “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Phải nói rằng Chúa Giêsu ví von nghe sao mà sốc quá ! Người ta đến với mình, hạ mình xuống để xin mình chữa cho con của họ mà họ là phụ nữ nữa chứ ! Cho không cho thì thôi, còn ví von này nọ, còn đem hình ảnh của những miếng bánh cho chó ! Chúa Giêsu kỳ quá ! Không ! Chúa Giêsu không kỳ, Ngài dùng lời lẽ đó để thử lòng tinh của người phụ nữ “ngoại giáo” này ! Thử thì thử nhưng lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này đã phá vỡ được sự “cứng cỏi” của Chúa Giêsu. Ta có thể nói rằng trong ván cờ này Chúa Giêsu thua 1-0. Thua 1-0 nhưng thật ra là thắng ! Thắng vì lẽ Chúa Giêsu đã thu lợi được một con người, một lòng tin từ người “ngoại” này vào Thiên Chúa. Thua như thế cũng đáng thua chứ cũng chẳng mất mát gì. Không chỉ thua mà Chúa Giêsu còn minh chứng, còn công bố cho những người gặp gỡ Chúa hôm ấy rằng : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”. Lòng tin của người phụ nữ “ngoại giáo” này được Chúa bù đắp một cách mỹ mãn.

Như trong bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe : Đây Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện. "Người ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".

Đức Chúa hứa với những người ngoại bang sẽ trở thành tôi tớ Chúa vì họ trung thành với giao ước và được Đức Chúa dẫn lên núi thánh. Còn chúng ta, chúng ta được gọi là “con nhà có đạo”, là quân “Giudêu”. Có đạo chục năm, vài chục năm, thậm chí bảy tám chục năm nhưng rồi lòng tin của chúng ta đang ở mức độ nào ? Nó còn nồng thắm như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” khi mới theo Chúa hay không ?

Phải nói rằng như người ta vẫn nói : “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhiều khi cứ đi lễ đi nhà thờ như một thói quen chứ niềm tin thì cứ nhạt dần nhạt dần. Người ta có thể cân đo đong đếm thóc lúa tiền nong chứ làm sao mà đo được lòng tin. Thế nhưng, dẫu không đo được lòng tin cao bao nhiêu ? sâu baon nhiêu ? rộng bao nhiêu ? không cân được lòng tin của anh, của chị, của chúng ta được bao nhiêu ký nhưng qua lối sống, qua hành vi, tương quan của mỗi kitô hữu với những người xung quanh có thể biết được người ấy tin Chúa ở mức nào, sống kết hợp với Chúa như thế nào ?

Đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện là nền tảng của đời sống kitô hữu nhưng sau khi suy gẫm, sau khi cầu nguyện ta diễn tả niềm tin vào Chúa như thế nào chứ đâu phải cứ ngày ngày, giờ giờ ngồi bên Chúa là hay đâu. Có những người chăm chăm chú chú, ngày ngày giờ giờ cầu nguyện nhưng sau khi cầu nguyện xong trở lại đời sống bình thường thì cư xử khó có ai đón nhận được ?

Chẳng nói đâu xa, trong giới “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cũng thế thôi. Cũng mang trong mình cái áo của “luật sĩ và biệt phái” đấy nhưng cách cư xử chẳng ra làm sao cả. Chính “luật sĩ và biệt phái” không sống lòng tin chân chính vào Chúa, không diễn tả lòng tin thật của mình vào Chúa mà chỉ sống cái hình thức bên ngoài thì làm gì mà đòi hỏi giáo dân sống niềm tin tinh tuyền.

Hình ảnh người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay là cơ hội để chúng ta xét lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Từ “luật sĩ và biệt phái” thời hiện đại cho đến giáo dân xét xem mình còn tin Chúa hay không ? Nếu còn tin Chúa thì chắc chắc Chúa sẽ ban ơn lành cho chúng ta. Thiên Chúa bao dung, Thiên Chúa quãng đại, Thiên Chúa hào phóng nhiều hơn là chúng ta tưởng.

Chúng ta - quân “Giudêu” - có dám tin vào Chúa như người phụ nữ “ngoại giáo” hôm nay không ? Nếu chúng ta tin thật vào Chúa như “người ngoại” thì bảo đảm Chúa cũng phải mềm lòng với những kẻ cứng đầu cứng cổ, chầy cối van xin Chúa như người ngoại đạo hôm nay trong Tin mừng.

NHỮNG ÂN TÌNH THƯỜNG TÌNH
Mt 15, 21 - 28

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Phải vào đạo Công giáo mới được được lên thiên đàng sao ? Vâng, đúng thế. Một thừa sai cách đây gần 300 năm không chỉ xác quyết như trên mà còn nói thêm rằng mọi người không vào đạo Công giáo đều xuống hỏa ngục. Một bà vương tộc nước Việt chúng ta, người đặt câu hỏi trên đây đã nhất quyết không vào đạo Công giáo vì một chức sắc của đạo ấy quả quyết tiên tổ của bà đều xuống hỏa ngục tất. Và chính bà ta đã thẳng tay đuổi vị thừa sai ra khỏi nhà.

Cần khiêm tốn thú nhận rằng đã một thời Kitô hữu chúng ta tự nhốt mình trong tháp ngà tự kiêu chủ quan : Chỉ có đạo ta mới là đạo thật, chỉ có chúng ta mới nắm trọn chân lý, ngoài đạo ta, anh em lương dân, bà con khác đạo đều là sai lạc sạch sành sanh và không thể được cứu rỗi.

Thử hỏi chân lý ta có được do bởi đâu, phải chăng là nhờ sự truy tìm của trí khôn ? Không loại trừ sự góp phần của lý trí, nhưng nguyên lý trí vẫn chưa đủ. Chân lý ta thủ đắc là nhờ lòng tin dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa. Đức tin là ân sủng nhưng không do Chúa ban tặng. Thiên Chúa lại là Đấng giàu lòng từ bi, nhân ái. Người muốn mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định sự thật này với môn đệ Timôtê (x. Tim 2,3-4 ). Thiên Chúa, Đấng chẳng nể vì hay tây vị một ai, Đấng rộng tay cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, Đấng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn kẻ bất lương, chắn chắn Người chẳng hẹp hòi với bất cứ ai. Tiên tri Isaia công bố rằng mọi người sẽ được Chúa dẫn lên Núi thánh, cho họ hân hoan bước vào Nhà cầu nguyện, vì Nhà Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân nước ( x.Is 56,6-7).

Đức tin là do Chúa ban tặng. Thế nhưng đức tin không phải là một món quà cụ thể được trao ban một lần tức thời, nhưng thường là dần dần qua những điều kiện tự nhiên khách quan lẫn chủ quan. Một trong những điều kiện tự nhiên ấy chính là những mối tình chân chính bình thường của kiếp người : Tình phụ tử, mẫu tử, tình phu thê, tình bằng hữu… Một người mẹ, một phụ nữ xứ Canaan, một lương dân hay ngoại giáo đã bày tỏ niềm tin sắt đá khiến Chúa Giêsu phải khâm phục. Đấng Thiên sai cũng đã từng khâm phục lòng tin của một viên sĩ quan bách quản đến nỗi Người khẳng định rằng chưa thấy có lòng tin nào mạnh mẽ như thế trong Israel ( x. Mt 8,10 ).

Viên sĩ quan bách quản và người mẹ xứ Canaan trên đã sớm chân nhận căn tính Thiên Sai của Chúa Giêsu chăng ? Điều này chúng ta không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng một điều thật hiển nhiên ta có thể khẳng định, đó là tấm lòng của người phụ nữ ngoại giáo dành cho đứa con và tấm lòng của viên sĩ quan bách quản dành cho người đầy tớ thật sâu đậm và dạt dào. Vì thương con, chị phụ nữ kiên trì lẽo đẽo theo chân Thầy Giêsu. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua chướng ngại của sự tự ái, đồng thời bày tỏ sự khiêm nhu : “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mãnh vụn từ bàn rơi xuống” ( Mt 15,27 ). Vì thương người đầy tớ, viên sĩ quan bách quản không ngại ngần đến gặp Chúa Giêsu, một người Do Thái vốn là dân đang bị cai trị, đồng thời lại bày tỏ sự khiêm nhu : “ Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi…” ( Mt 8,8 ).

Theo tiến trình tự nhiên, thì không phải nhờ đã có lòng tin nên ta biết yêu, mà ngược lại nhờ biết yêu thương thì lòng tin của ta dần dà nên vững mạnh. Chúng ta dễ nhận ra hiện thực này qua tương quan đôi lứa. Vì yêu nhau nên đôi bạn trẻ ngày càng tin tưởng nhau hơn là vì đã tin tưởng nhau nên họ yêu nhau. Như thế niềm tin thường khởi đi từ trái tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng người ta đến với đức tin thường là do cảm nhận một mối tình, một nghĩa cử nào đó hơn là do “bị thua lý”. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một Kitô hữu ngã nghiêng, chao đảo hay khô cằn, thì lý do thường thấy là vì đời sống luân lý sa sút hơn là do thiếu hiểu biết, mặc dù ta không thể loại trừ hay giảm nhẹ vai trò của lý trí trong việc gìn giữ và củng cố đức tin.

Trong thời gian rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thường bày tỏ tình yêu của Người qua việc thi ân giáng phúc rồi sau đó mời gọi người ta tin vào Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi no đủ gần cả vạn người cũng như nhiều phép lạ khác như chữa lành người mù từ thưở mới sinh… là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Ngay đêm Tiệc lý, sau khi cử hành “Lễ tạ ơn” và rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu tha thiết : “Anh em hãy tin vào Thầy…” ( Ga 14,1 ).

Là những người đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được xem là người có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin của mình bằng chính những nghĩa cử bác ái yêu thương. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” ( Gia 2,17 ). Khi khẳng định chân lý này thánh Giacôbê tông đồ trước tiên muốn nói đến hành vi bác ái mà Kitô hữu cần thường xuyên thực thi. Vì trước đó Ngài nói : “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không có đủ của ăn hằng ngày mà có ai trong anh em lại nói với họ : ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ cần, thì nào có ích lợi gì ?” ( Gia 2,15-16 ).

Một sứ vụ gắn liền với căn tính của Kitô hữu, đó là rao giảng tin mừng, là chia sẻ niềm tin mình đã lãnh nhận. Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng truyền giáo, tuy nhiên cách thế xem ra thiết thực nhất, để khởi đầu việc gieo hạt giống đức tin đó là rộng tay chia sẻ tấm lòng của mình qua các mối tình nhân loại chính đáng và phải đạo. Dĩ nhiên không phải dùng của cải vật chất như chiêu bài để câu tín hữu như đã có một thời với “chuyện đạo gạo, đạo bộp bắp, bột xép…”, nhưng phải phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật.

Biết yêu thương, dù với những nghĩa cử thường tình của tình nhân loại, thì niềm tin sẽ được củng cố. Được yêu thương thì niềm tin sẽ được gợi mở và dệt xây. Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận những ân tình bình thường của ta để tuôn ban ân sủng đức tin. Có đức tin thì sẽ có sự sống đời đời. Xin đừng quên lời cảnh báo của Thầy chí thánh : “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến cùng dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac va Giacop trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt 8,11-12).

KHÔNG AI BỊ LOẠI TRỪ RA KHỎI TRÁI TIM CỦA THIÊN CHÚA
Mt 15, 21 - 28

Lm. Phêrô Nguyễn Hương

Không ai xa lạ, không một ai bị loại trừ khỏi trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là chủ đề chính mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta.

Extra ecclesiam nulla salus? (Ngoài Giáo hội không có sự cứu rỗi?)

Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.

Trong hiến chế Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.

Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ.

Và đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, Isaia cho biết: Thiên Chúa không chỉ muốn cứu độ Israel – Dân riêng, Ngài còn muốn đón nhận và cứu độ tất cả những ai “giữ luật và thực thi công bình”, cả những người “ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và yêu mến danh Người vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Nói như Thánh vịnh là: Thân Lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (Tv 66,6). Thánh Phaolô quả quyết: “Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc” (Rm 11, 13-15).

Đức Giêsu trong bài Tin Mừng cũng xác nhận Ngài được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel, nhưng Ngài cũng đến để cứu độ Dân Ngoại, khi Ngài công khai khen ngợi đức tin của người đàn bà Canaan và nhờ đức tin mạnh mẽ và kiên nhẫn của Bà, Chúa chữa lành con gái của bà bị quỷ ám. Đức tin đó mang lại ơn cứu độ, Đức tin đó khiến Chúa thực hiện những điều kỳ diệu cho Bà.

Vâng, chúng ta phải xác tín rằng: ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến là cho tất cả, không lại trừ ai, không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai. Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội. Thiên Chúa không loại trừ ai, chỉ có con người loại trừ nhau. Thiên Chúa không có kỳ thị và phân biệt ai, chỉ có con người mới kỳ thị nhau và tạo ra những hàng rào ngăn cách. Vì thế hôm nay, tất cả chúng ta được mời gọi mở rộng cái nhìn của mình theo cách nhìn của Thiên Chúa, là biết kính trọng và biết đón nhận sự khác biệt và sự đa dạng phong phú của những người khác, của tôn giáo khác. Đồng thời tất cả chúng ta cũng được mời gọi truyền giáo và rao truyền những gì tốt đẹp của Tin Mừng cho những người xưng quanh, nhất là những người chưa biết Chúa.

Câu chuyện sau đây cũng diễn tả được điều mà chúng ta vừa nói: Ngày nọ, Chúa đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.

Tại quầy hàng của người Do thái, người ta treo quảng cáo: “Chúa là Ðấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ”.

Tại quầy hàng của người Hồi giáo, thì rao rằng: “Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa”.

Tại quầy hàng của người Kitô giáo, thì trưng bày: “Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập Giáo hội hoặc là mất linh hồn đời đời”.

Trên đường trở ra, có người hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”

Chúa trả lời: “Ta không tổ chức hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”!!!

CẦU NGUYỆN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN
Mt 15, 21 - 28
LM. Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).

2. CÂU CHUYỆN: TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không ?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy ?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.

3. SUY NIỆM:
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà lành bệnh. Nhờ có đức tin mạnh mà bà đã được Người ban cho như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải cầu nguyện với lòng tin như thế nào?

- CẦN CÓ MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà mạnh yếu thế nào ? Nếu bà không kêu xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là tin vụ lợi: “Tin Chúa để được Người ban ơn như ý !” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”. Nhiều khi chúng ta cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, chúng ta có hồ nghi sự hiện hữu của Chúa và tự hỏi: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của tôi không ? Có nhìn thấy những khó khăn của tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp không ?”.

- CẦN CÓ MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà này đã không ngã lòng trông cậy dù bị Đức Giê-su giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì kêu xin Người cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời, thì liền chán nản ngã lòng trông cậy, không cầu nguyện nữa và bắt đầu “hữu sự vái tứ phương” là chạy đến với thầy bói, thầy ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác….

- MỘT ĐỨC TIN KHIÊM TỐN VÀ PHÓ THÁC: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà sằn sàng chịu đựng những lời miệt thị của người Do Thái, vì họ coi dân ngoại như loài chó. Chính sự khiêm tốn ấy khiến bà được Chúa yêu mến. Như vậy, tin không phải là cầu xin để đòi Chúa ban theo ý mình, nhưng là kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.

4. THẢO LUẬN:
1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ ?

2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào ?

3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm ?

5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao hồn xác.

- LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi đời đời của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng của Cha như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khí gặp phải những sự trái ý cực lòng... Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CHÚA GIÊSU ĐÃ THUA MỘT ĐỨC TIN TUYỆT VỜI
Mt 15, 21 - 28

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao : "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi !" (Mt 15, 22) Bà coi Chúa Giêsu là Đấng Messia.

Sự thinh lặng của Chúa Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời : "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.

Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là "bức tường hận thù" (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện "đừng có lải nhải như dân ngoại" (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà người nào trong dân Israel, thì hãy "đối xứ với họ như dân ngoại " (x. Mt 18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân ngoại.

Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng : "Lạy Ngài là con Vua Đavít" (Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.

Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu : "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi" (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, "không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó" (Mt 15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, "vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống" (Mt 15, 27). Lời này đã thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.

Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả? Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.

Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, "vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc" (Is 56, 7 ) ; để "hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài" (Tv 66). Bà cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó : "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót" (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x. Rm 11, 13-15. 29-32)

Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta! Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn, vì : "Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu"(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.

Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới đẹp làm sao.

Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như : người bạn đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người chiến thắng. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

2072    15-08-2014 09:07:07