Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Chúa Nhật VI Phục Sinh A 2014

  1. Nụ Cười Của Chúa
  2. Yêu Là Chu Toàn Lề Luật
  3. Yêu Như Thầy Đã Yêu
  4. Đời Không Đơn Côi
  5. Yêu Thương Và Vâng Phục
  6. Giữ Giới Răn Vì Yêu Mến
  7. Thuộc Về Chúa
  8. Hoa Quả Của Tình Yêu
  9. Yêu Cho Trọn
  10. Nếu Nói Yêu Thầy Mà Không Giữ Lời Thầy Là Mâu Thuẫn
  11. Tuân Giữ Giới Răn Là Mến Chúa Thực Sự
  12. Thần Tình Yêu Và Chân Lý
  13. Yêu Mến Thầy Thì Giữ Giới Răn Thầy
  14. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
  15. Đấng Bảo Trợ
  16. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
  17. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
  18. Lệnh Truyền Và Lời Hứa
  19. Đức Giêsu, Niềm Vui Hy Vọng
  20. Yêu Mến Chúa
  21. Tình Yêu Và Giới Luật
  22. Ngôi Lời Tỏ Tình Yêu Thiên Chúa
  23. Sự Sống Mới
  24. Sức Mạnh Của Đức Tin
  25. Hãy Trở Thành "Người Bảo Vệ - Paraclete" Cho Tha Nhân
  26. Yêu Mến Chúa
  27. Yêu Mến Chúa
  28. Yêu Mến Thầy, Thì Hãy Giữ Giới Răn Thầy

NỤ CƯỜI CỦA CHÚA
Ga 14, 15 - 21

Trên đời này, khi người ta yêu thương nhau, người ta sẽ sẵn sàng sống cho nhau, làm hài lòng nhau, làm theo ý của nhau...Vợ chồng thực sự yêu thương nhau, sẽ cố gắng làm vui lòng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ, sẽ cố gắng vâng nghe lời cha mẹ. Học trò yêu mến thầy, sẽ cố gắng giữ lời thầy dạy....Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho đồ đệ mình, một chân lý tương tợ như thế: "nếu anh em yêu mến Thầy, hãy nghe lời Thầy, nghĩa là hãy giữ giới răn Thầy truyền dạy..." (Ga 14, 17). Đây chính là chủ đề của ngày chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm....

a/. Có một vài câu chúng ta cần lưu ý tìm hiểu:

Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn của Thầy: Chúa biết các môn đệ yêu mến Ngài, nhưng lòng yêu mến đó không phải là thứ tình cảm suông, mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể, là vâng theo thánh ý Chúa, và tuân giữ luật Chúa bằng việc yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Đó là giới răn yêu mến (Mt 22, 40).

Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy: Thiên Chúa yêu thương con người trước; nhưng khi con người sẵn sàng tuân giữ luật Chúa, điều đó chứng tỏ họ trân trọng và muốn phát triển tình yêu của Thiên Chúa nơi bản thân họ. Nói cách khác, tình yêu của Thiên Chúa nơi họ có kết quả, và vì họ trung kiên trong tình yêu mến đó, nên họ cảm được, hiểu được, thấm được nhiều điều Thiên Chúa mạc khải cho họ...

Ca dao, châm ngôn VN nói về qui luật của tình yêu và qui luật của người được yêu, rất chí lý :
* Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chổ lệch cũng kê cho bằng.
* Yêu nhau trái ấu cũng tròn ...
* Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười...

b/. Câu chuyện minh họa : Một bác sĩ giải phẩu người Mỹ, đã vâng theo tiếng gọi của Chúa: "nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giớí răn của Thầy...". Vì thế ông đã bỏ mọi sự, tới một hòn đảo xa xăm trên Thái Bình dương, một nơi dân chúng rất nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ. Một vị mục sư là bạn thân của bác sĩ, một hôm chuẩn bị đến thăm ông. Vì muốn để cho bác sĩ bị bất ngờ, nên ông mục sư đã không báo trước... Vừa tới nơi, ông thấy bác sĩ vừa giải phẩu đôi mắt cho một em bé gái 8 tuổi. Bác sĩ đi ra, vui mừng vì ca giải phẩu thành công. Ông mục sư hỏi: nếu ở Mỹ, ông được trả bao nhiêu? - chắc chắn không dưới 3000 đô. - Còn ở đây, bao nhiêu? Bác sĩ trả lời: Tôi không biết, có lẻ vài xu cộng với nụ cười của Thiên Chúa.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy ông bác sĩ đã chọn một việc là: đi tìm kiếm nụ cười của Thiên Chúa hơn là tìm kiếm tiền của vật chất. Chắc chắn là như thế, vì nếu muốn tìm kiếm tiền của, ông bác sĩ đã không bỏ quê hương nước Mỹ êm ấm của mình, để đến sống một nơi nghèo khổ, thiếu thốn như thế này....

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Yêu mến Thiên Chúa không phải chỉ là tình cảm suông mà còn phải vâng giữ luật của Thiên Chúa nữa. Ít có người công giáo nói mình là không yêu mến Chúa; nhưng thực tế lại có nhiều người không sẵn sàng tuân giữ giới răn Chúa. Ta là hạng người nào trong số đó? Ta có luôn đổ thừa tại vì mình yếu đuối, nên chưa đủ sức sẵn sàng giữ luật Chúa như Chúa mong muốn?

YÊU LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT
Ga 14, 15 - 21

Tiếp tục trong diễn từ chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ, sau khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình đi trên Con Đường là chính Ngài để đến với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu lại mời gọi các ông hãy đi trên con đường đó với một lòng yêu mến chân thật. "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (G14,15).

Trong thực tế của cuộc sống, đặc biệt nơi người Việt Nam , chúng ta dể dàng nhận ra nguyên tắc song hành này trong đời sống con người, "yêu ai thì muốn làm đẹp lòng người đó". Trong cuộc sống đức tin, việc chúng ta tuân giữ các giới răn của Chúa, các luật của Giáo hội có phải là một đòi hỏi quá đáng không và con người có thể tuân giữ các giới luật đó không?

Đôi khi trong cách sống đạo của người Kitô hữu đã làm cho những người ngoài Công giáo hiểu rằng: Đạo Công giáo là một tôn giáo với vô số các luật lệ, cấm đoán, làm cái gì cũng tội, cái gì cũng không được phép làm....và như thế những người giữ đạo Công giáo quả là tội nghiệp vì đạo đã làm cho họ mất tự do. Nhưng thật sự có phải như thế không? Cái gì làm cho con người mất tự do?

Trở lại với những trang đầu tiên của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho họ được sống trong ân sủng của Thiên Chúa theo như kiểu nói của "Sách Giáo Lý hỏi thưa" là họ không phải đau khổ và không phải chết. Lý do nào mà Sách giáo lý nói như thế? Có phải họ không phải lao động, có phải họ không phải dấn thân cho nhau?... Chắc hẳn là không phải như thế, bởi chính trong Sách Sáng Thế đã nói: Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn cho họ canh tác và giữ vườn. Canh tác là gì nếu không là lao động, canh tác là gì nếu không phải là cộng tác với Chúa làm cho công trình tạo dựng của Chúa ngày một tốt đẹp hơn. Sách giáo lý khi nói họ (nguyên tổ loài người) không phải đau khổ và không phải chết là có ý nói rằng họ sống trong tình yêu tròn đầy với Đấng Tạo Hóa và với nhau nên những gì họ thể hiện với Đấng Tạo Hóa cũng như đối với nhau đều là những hạnh phúc được dấn thân, hạnh phúc gì đã làm đẹp lòng "Người Yêu" và họ muốn dấn thân để được thể hiện tất cả trong tình yêu.

Cũng vậy trong đời sống gia đình người ta không thể nào thấy được tình yêu mà người nam và người nữ trao hiến cho nhau nhưng qua hành động hy sinh cho nhau, phục vụ nhau người ta có thể nhận định được tình yêu hai người trao cho nhau lớn lao như thế nào. Cũng vậy, trong đời sống đức tin, tôi không thể nào thấy được đức tin của tôi to lớn như thế nào, nhưng tôi hoàn toàn có thể biết được tôi có tin Chúa hay không qua việc tôi có hạnh phúc khi tuân giữ các giới răn của Chúa hay không. Khi tôi yêu mến Chúa thật sự thì tôi mới mong ước được đáp lại tình yêu của Ngài bằng việc tuân giữ lời Ngài.

Mà thật ra, việc tuân giữ các giới răn của Chúa không làm cho con người mất tự do nhưng lại làm cho con người có tự do và hạnh phúc thực sự. Bởi bản chất con người là siêu nhiên, con người từ nơi Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa nên khi tuân giữ luật Chúa là con người tháp nhập mình với chính nguồn cội của mình là Thiên Chúa và khi đó con người được hạnh phúc trọn vẹn.

Trong thâm tâm mỗi người Kitô hữu chúng ta, ai cũng muốn yêu mến Chúa cách trọn vẹn. Nhưng cuộc sống đôi khi làm cho chúng ta lu mờ đi khát vọng yêu mến này. Nhớ lời dạy của Chúa Giêsu "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ các điều răn của Thầy"(xGa14,15) để mỗi người chúng ta biết để tâm thi hành lời dạy của Chúa trong cuộc sống mình, để chúng ta biết yêu mến Chúa nhiều hơn và để chúng ta tìm được hạnh phúc chân thật trong tình yêu của Chúa.

YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU
Ga 14, 15 - 21

Một bà mẹ trẻ đưa con vào bệnh viện với sự lo âu hiện rỏ trên nét mặt. Có lẽ đã nhiều ngày bà không an tâm với tình trạng của con mình. Cũng có lẽ bà đã mang con đi rất nhiều nơi nhưng không kết quả. Bà dường như van xin các y tá và bác sĩ, bà không còn nhận ra những người chung quanh là ai, cũng không còn biết mình là ai. Bà khóc lóc van xin mọi người làm sao cứu lấy con bà, cho nó được sống. Các bác sĩ lúc đầu dường như có vẻ hơi trách móc bà vì sao đưa con đến bệnh viện quá trễ. Nhưng nhìn thái độ của bà như thế, họ không còn trách móc nữa mà chú tâm lo cho đứa trẻ. Một lúc sau có người bao tin cho bà biết, con bà đã ổn rồi, không phải lo gì nữa. Khi đó bà dường như không còn chút sức lực nào nữa, bà quỳ xuống và cám ơn rối rít.

Tôi chợt suy nghĩ, tại sao bà mẹ trẻ có thể bất chấp đám đông, không còn chút e ngại, làm những cử chỉ mà bình thường, bà không thể nào làm được giữa nơi đông người như thế. Thưa đó là Tình Yêu, thật thế, chỉ có tình yêu mới có sức mạnh như thế, chỉ có tình yêu mới làm cho bà mẹ trẻ vượt qua sức lực yếu đuối của chính mình mà mang con đi đến những nơi cần thiết. Cũng chỉ có tình yêu mới làm cho con bà được sống. Sức mạnh của Tình Yêu vượt lên trên tất cả.

"Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng phù trợ khác để ở với anh em luôn mãi". Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài về sức mạnh của Tình Yêu. Nếu tình yêu còn hiện diện thì còn sự sống, mà sống trong tình yêu thì không còn lo âu sợ hãi điều gì nữa. Tình yêu mách bảo cho biết phải làm gì để chứng tỏ lòng yêu thương thật sự, và khi sống cho tình yêu thì trong mọi công việc, như có chính người yêu hiện diện trong cuộc sống mà không phải lo lắng gì nữa.

Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ Ngài sức mạnh để các ông sống và chu toàn trách nhiệm mà Ngài trao phó cho các ông. Sức mạnh mà các Tông đồ lãnh nhận và đã sống, các ông cũng đã truyền lại cho những ai tin theo lời rao giảng của các Ngài.

Mỗi người trong chúng ta cũng nhận được sức mạnh tình yêu đó, một sức sống mãnh liệt mà các Tông Đồ truyền lại cho những kẻ tin. Một người còn biết yêu thương là còn đang sống, khi không còn biết yêu thương, thì cho dù người đó đang sống, xem như họ đã chết. Chúng ta nhìn xem, hiện tại mình đang sống hay đã chết.

Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được những công việc phải làm, cho dù vất vả, cho dù khó nhọc đến đâu, nhưng chúng ta vẫn can đảm vượt qua, để khi nhìn lại, đôi khi chúng ta cũng ngỡ ngàng không biết làm sao mình có thể sống được đến ngày hôm nay. Đó là vì chúng ta biết yêu thương, nên sức mạnh của Tình Yêu giúp chúng ta vượt qua.

Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng biết lắng nghe, cho dù đó là những lời chói tai, những lời làm cho mình phải đau đớn, hay những lời nói làm cho mình phải bị mất mát thiệt thòi, nhưng nhờ những lời nói đó làm cho con tim chúng ta rung động để phải làm những việc nên làm. Đó là chúng ta đang sống trong tình yêu.

Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta không thể ngồi yên khi có việc cần đến mình, để luôn hành động khi biết đó là một việc tốt, có khi công việc đó chiếm thời giờ và công sức không ít, nhưng vẫn không ngần ngại. Đó cũng là nhờ sức mạnh của Tình Yêu.

Nhưng nếu chúng ta so đo và tính toán thiệt hơn, chỉ mong muốn lợi lộc về cho mình, còng người khác thì "sống chết mặc bây". Khi đó con tim chúng ta đã chay lì khô cứng, nó đã chết từ thuở nào. Khi đó làm sao chúng ta có cái cảm giác yêu thương như bà mẹ trẻ, khi biết con mình được cứu sống. Như thế làm sao chúng biết được cuộc sống có ý nghĩa như thế nào, nếu không biết yêu thương. Hơn nữa, là một người Công Giáo, là Môn Đệ Chúa Giêsu, làm sao chúng ta có thể chu toàn lề luật của Ngài được, nếu không biết Yêu Thương.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban thêm sức mạnh và can đảm cho chúng ta, để chúng ta biết yêu thương như Ngài đã yêu thương.

ĐỜI KHÔNG ĐƠN CÔI
Ga 14, 15 - 21

Trước khi bước vào con đường tử nạn và phục sinh vinh quang, Chúa Giêsu đã để lại di huấn cho các tông đồ: Ngài ra đi, nhưng Ngài không bỏ các ông mồ côi (x. Ga 14,18). Ngài cũng đảm bảo với các ông, trước khi về trời, khi sai các ông đi loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Đồng thời, để củng cố niềm tin của các ông, Chúa Giêsu còn hứa ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần.

Thật ra chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bàu Chữa cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha (x.1ga 2,1), nhưng khi Ngài phục sinh vinh quang, không còn hiện diện hữu hình bên cạnh các tông đồ nữa, thì Thánh Thần được Chúa Cha sai đến giúp chúng ta sống tâm tình nghĩa tử, mà chính Chúa Giêsu, qua công cuộc nhập thể của người đã mang lại thân phận ấy cho chúng ta. Là Thần Khí Sự Thật (x.ga 14,17), Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, cử chỉ, lời nói, cách sống của ngài, để giúp chúng ta can đảm sống đức tin trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi người. như vậy, dù chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô (1tm 2,5), nhưng có hai Đấng Bàu Chữa: Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu về trời, nhưng không bỏ các tông đồ mồ côi. Ngài đã xa cách các ông về mặt thể lý, khiến các ông không còn sờ đụng, xem thấy hoặc nghe tiếng nói từ chính miệng Ngài nữa, nhưng thực ra Ngài vẫn hiện diện bên các ông, trong các ông. Bởi vì thân xác Chúa phục sinh đã được biến đổi trở nên thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc bởi vật chất, không gian và thời gian, nên giờ đây, Ngài hiện diện một cách sâu xa hơn, gần gủi, gắn bó hơn trong Hội Thánh, nơi nhà tạm, trong tâm hồn mọi tín hữu có ơn thánh hoá và ở khắp mọi nơi .

Là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Giêsu trong tâm hồn. mà ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó có Chúa Ba Ngôi và chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bàu Chữa sẽ chứng thực, soi sáng, làm cho chúng ta nhận ra sự kết hiệp mật thiết nầy. Như vậy, đường đời các tông đồ và chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô đâu có đơn côi!

Chúa Giêsu vừa là Chúa Cứu Độ, vừa là Thầy, vừa là bạn đồng hành của những kẻ tin vào người. được Chúa yêu thương ban ơn cứu rỗi, được Thầy dẫn dắt trên nẻo đường đời gian nan bất trắc, được có bạn đường chung thủy không bao giờ bỏ rơi chúng ta, ngay cả lúc chết... như thế còn hạnh phúc nào lớn hơn cho chúng ta! đời Kitô hữu chính là sống trong niềm hy vọng, phó thác, buông mình vào tay Thiên Chúa tình thương, không chỉ một lần, mà là sự chọn lựa hằng ngày của mỗi người.

Đâu đó vang lên bài thánh ca: "Đường đi có Chúa gian nguy con có lo chi..."

YÊU THƯƠNG VÀ VÂNG PHỤC
Ga 14, 15 - 21

Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu giáo huấn cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Trong những giờ phút sau cùng này, Ngài đã nói với các môn đệ những lời căn bản nhất. Những điều ấy như là những chỉ dẫn thiết yếu cho các môn đệ trong tương lai, và đó cũng chính là những gì Ngài muốn họ sống trong khi không có Ngài hiện diện bên cạnh cách hữu hình. Một trong những điều ấy là: "nếu các con yêu mến Thầy , các con hãy giữ các giới răn của Thầy".

Chúa không nói với chúng ta đến việc tuân giữ các giới răn một cách lý thuyết mà nói bằng chính cuộc sống của Ngài. Điều gì thật sự có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu? Không thể gọi chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu cách đúng nghĩa, nếu chúng ta không lắng nghe và cố gắng thực hiện lời của Ngài. Chúng ta càng không là Kitô hữu nếu chúng ta không nỗ lực sống những gì Chúa Giêsu dạy.

Nhưng chúng ta cần phải xác tín một điều. Chúng ta không phải giữ giới răn của Chúa để được Ngài yêu mến, mà chúng ta giữ giới răn Chúa bởi gì Ngài đã yêu mến ta trước. Trong suốt bữa tiệc ly, Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở: "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương". Điều đó cho chúng ta thấy, chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước, và yêu thương chúng ta cách nhưng không, vô điều kiện.

Một sự thật quan trọng chúng ta cần phải nhận ra là chúng ta đã được yêu thương cách nhưng không. Nhiều khi chính chúng ta cũng không tin rằng tại sao chúng ta lại được Chúa yêu thương như thế. Vì chúng thường nghĩ, hay để ý: Chúa chỉ yêu thương chúng ta khi chúng ta tốt. Nhưng thật ra Chúa không thương yêu chúng ta vì chúng ta tốt lành, thánh thiện nhưng bởi vì Chúa tốt lành, thánh thiện. Vì ngay cả sự hiện hữu của chúng ta trên đời đã là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chính tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là Tin Mừng cho nhân loại. Bổn phận của chúng ta là nỗ lực, cố gắng đáp lại tình yêu ấy.

Chúa Giêsu biết rằng, Chúa Cha đã yêu thương Ngài và Ngài đã đáp lại bằng cách yêu thương Chúa Cha. Và Ngài đã chứng tỏ tình yêu đối với Chúa Cha qua thái độ vâng phục, thậm chí vâng phục đến nỗi dâng hiến cả cuộc sống mình. Cũng chính nhờ sự vâng phục mà chúng ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu. Như thế có ý nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải biết lắng nghe lời Ngài và mang ra thực hành trong cuộc sống. Yêu thương là vâng phục, và vâng phục là yêu thương.

Có nhiều người chỉ biết tuyên bố yêu Chúa Giêsu trong lời nói, nhưng lại chối bỏ Ngài trong đời sống họ. Tình yêu thật sự phải được minh chứng bằng việc làm cụ thể. Người ta chỉ biết chúng ta qua hành động chứ không phải bằng những lời nói ngoài môi miệng.

Nhưng thật sự không phải dễ sống như người môn đệ của Chúa Giêsu trong thế giới hiện đại hôm nay. Đó cũng chính là lý do mà Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Để khi chúng ta yếu đuối, chúng ta cầu nguyện với Ngài. Chính Thánh Thần sẽ an ủi khi ta buồn, soi sáng lúc ta lâm vào tăm tối và làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ, dũng cảm khi chúng ta yếu đuối.

Danh từ mà Chúa Giêsu gọi Thánh Thần là "Đấng An Ủi", Ngài chính là Đấng nâng đỡ, bào chữa khi chúng ta gặp thử thách gian nan. Chính Ngài đã ban sức mạnh để nâng đỡ các môn đệ trong lúc gặp thử thách. Cũng chính nhờ Người mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể đón nhận những đau khổ như thập giá phát sinh ơn cứu độ. Như thánh Phêrô tông đồ nhắc nhỡ trong bài đọc II: "thà chịu đau khổ vì làm những việc lành còn hơn là làm điều dữ". Chính khi thi hành điều thiện mà gặp đau khổ thì đời sống đức tin chúng ta sẽ lớn lên và mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn có một gương mẫu là Đức Kitô, Đấng dù vô tội nhưng vẫn chịu đau khỗ và chết vì tội lỗi chúng ta.

Các tông đồ biết rằng chính Chúa Giêsu yêu thương họ. Và chúng ta biết Ngài cũng yêu thương chúng ta. Không có một tình yêu nào lại mang bóng dáng của sự lầm lỗi, vì đã là tình yêu thì không phải là tội lỗi. Bạn chỉ có thể cảm nhận điều này ngay trong trái tim bạn. Nó như một ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn bạn, thêm sức mạnh để bạn có thể vượt qua những giây phút tăm tối trong cuộc đời. Tình yêu làm cho chúng ta gắn bó, hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và nối kết chúng ta lại với nhau. Đời sống người Kitô hữu chỉ có thể lớn lên khi được nuôi dưỡng trong môi trường, bầu khí yêu thương, thánh thiện.

"Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Điều đó đã thâu tóm lại tất cả những gì lề luật dạy.

GIỮ GIỚI RĂN VÌ YÊU MẾN
Ga 14, 15 - 21

Làm bất cứ điều gì nếu ta thực hiện với cả tấm lòng và nhất là khi ta đặt vào đó tình yêu thì cho dù vất vả cách mấy cũng trở nên nhẹ nhàng, thoải mái. Hơn thế, hiệu quả đem lại có giá trị cao và phi thường. Một anh thanh niên và một cô thiếu nữ thật lòng yêu thương nhau sẽ tự cam kết sống với nhau cho đến răng long đầu bạc. Mặc dù trước cam kết đó sẽ là không biết bao nhiêu vất vả, khó khăn. Cha mẹ dầm sương dãi nắng, đổ mồ hôi sôi nước mắt hay bán mặt cho đất bán lưng cho trời chỉ vì yêu thương lo cho con cái mình. Cho dù điều đó không ai buộc họ phải làm. Cũng thế, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi ta tuân giữ giới răn của Người vì yêu mến.

Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy" (Ga, 14, 15). Thông thường khi được kêu gọi tuân giữ điều gì ta hay tự hỏi nó sẽ đem lại lợi ích gì cho tôi. Chẳng hạn khi được kêu gọi đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông thì tôi được an toàn hơn nếu lỡ có xảy ra tai nạn. Tôi được kêu gọi ăn chín uống sôi, ăn sạch uống sạch để bảo vệ khỏi mắc bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm đến tính mạng... Do đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự hỏi tuân giữ giới răn Chúa tôi sẽ được gì. Chắc chắn có lợi ích nên Người mới mời gọi ta. "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14, 16) ; "Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em" (Ga 14, 18) và "...sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14, 21). Thật là những lợi ích hết sức thiêng liêng quý giá. Chỉ trong cái nhìn đức tin chúng ta mới có thể cảm nhận được những lợi ích đó.

Hơn thế nữa, tuân giữ những giới răn của Chúa vì để đáp đền tình yêu Thiên Chúa sẽ lý do cao cả và quý nhất. Ðiều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã có lần nói chính là mến Chúa yêu người (Mc 12, 24 - 38)

Làm sao ta có thể mến Chúa yêu người nếu như ta chưa thật sự cảm nhận được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Ðược sinh ra làm người và được làm con Chúa đó là ơn ban nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Vì thương mà Thiên Chúa đã chẳng tiếc gì kể cả Con Một của Ngài. Bấy nhiêu cũng quá đủ để ta thấy Thiên Chúa yêu thương ta như thế nào. Ðặc biệt, những ngày trong mùa Phục sinh này càng làm cho tưởng nhớ tình thương Chúa dành cho ta. Chúa Giêsu đã được phục sinh vinh quang sau khi đi trọn con đường trần thế này. Ðó là điều bảo đảm nhất để ta thêm nghị lực mà tuân giữ giới răn của Người.

Xin bình an và tình yêu của Chúa Giêsu phục sinh cho ta tiếp tục cảm nhận được nhiều hơn tình yêu bao la Chúa dành cho mình. Ðể rồi vì đền đáp tình yêu Chúa mà ta tuân giữ giới răn mà Người truyền dạy.

THUỘC VỀ CHÚA
Ga 14, 15 - 21

Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Có lẽ, hơn ai hết, Thánh Phaolô đã cảm nếm hương vị tuyệt vời về biến cố sống lại của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã bị cuốn hút bởi Đấng Phục sinh sau biến cố lạ lùng xảy ra với ông trên con đường Đamas. Rồi sau khi được Đấng Phục sinh chinh phục, ông cảm thấy được Ngài là tất cả của ông. Không còn gì đáng mơ ước hơn nữa nếu đã có được Ngài ở bên và được thuộc về Ngài. Thánh Phaolô đã dùng bao nhiêu là từ ngữ và lời nói phát xuất từ con tim của Ngài để nói lên hạnh phúc được thuộc về Chúa: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô". Đó là tâm tình và sức sống của một kẻ cảm nghiệm mình được yêu và đang yêu.

Tất cả niềm hạnh phúc và sức mạnh dấn thân của Phaolô được khởi đi từ cảm nghiệm Đức Giêsu Kitô đang sống và đang đồng hành với ông trong cuộc đời này. Thánh Phaolô đã thốt lên: " Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng . . . Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu" (1Cr 15,14.19-20), để từ đây, ai thuộc về Đức Giêsu Kitô là thuộc về thế giới của sự sống, của kẻ sống và sống vĩnh cửu.

Trong cuộc đời này, có những khi ta cảm tưởng mình như đang bước đi trong bóng đêm dày đặc, đang rơi xuống vực thẳm đen tối khi bao nhiêu những dự định hay những mối quan hệ tình cảm bỗng nhiên bị đổ vỡ và tan biến. Đó phải chăng là một cuộc chết đi cho những dự tính nông cạn, thiển cận của con người được mời gọi tham dự vào cuộc sống mới, cuộc sống của Đấng Phục sinh.

Marian Picasso là cháu của hoạ sĩ Picasso. Từ năm 1973 đến năm 1975, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha của bà đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp được, dù bà nắm trong tay một gia sản khổng lồ. Năm 1990, bà đến Việt Nam và nhận các bé mồ côi hay bị bỏ rơi về làm con nuôi và giúp các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà cảm nhận được một sự thay đổi nơi nội tâm "nhờ giúp đỡ những trẻ em này, tôi tìm lại được chính mình. Giờ đây, tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em".

Hẳn đã có những người Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina , kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nổi đau của mình để chia sẻ niềm hạnh phúc cho những ai đang cần đến chúng ta. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình bình an khi không còn bận tâm lo cho mình nữa. Kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi biết chia sẻ tận tình.

Thuộc về Chúa Giêsu Kitô là sống theo gương mẫu của Ngài và sống như Ngài đã sống. "hy sinh mạng sống của mình vì người mình yêu". Sống thật là biết cho đi. Khi biết trao ban tận tình là thuộc về Đấng hằng sống. Đức Giêsu Phục sinh không chỉ hiện ra một vài lần nhưng Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế, một sự hiện diện 2 chiều, mới mẻ và thâm sâu "anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em", một sự hiện diện tràn đầy sức sống "Thầy sống và anh em cũng sống". Nhờ qua Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu tự bản chất đã được Phục sinh và sự Phục sinh ấy không ngừng lớn mạnh nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Giêsu Kitô.

Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống nơi mình. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Bắt đầu ra khỏi chính mình để sống yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo . . . cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong tình yêu.

HOA QUẢ CỦA TÌNH YÊU
Ga 14, 15 - 21

Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu tuyên bố Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ cho anh em một "Đấng Bảo Trợ" "không để anh em mồ côi""Ngài ở trong các con" . Hơn nữa là sẽ được "Cha Ta yêu mến". Để được điều đó đòi hỏi phải có hai điều kiện cần là "yêu mến""tuân giữ" các điều răn của Thầy. Hôm nay ta lại thấy rõ đặc điểm trong Tin Mừng Gioan mời gọi con người đi vào tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu trọn hảo làm phát sinh hiệu quả:

1. Nhờ tình yêu mà con người được Đấng Bào Chữa.

Danh từ "Đấng Bầu Chữa", do tiếng Hy Lạp là "Paracletos" chỉ người được mời đến bên cạnh bị cáo, để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự, giống như trạng sư được mời đến để bầu chữa. Khi Chúa Giêsu nói đến "Đấng Bầu Chữa khác", nghĩa là sẽ có hai Đấng Phù Trợ luôn nâng đỡ và không bao giờ để cho chúng ta mồ côi. Nhất là khi gặp những người buồn phiền lo sợ thử thách trong cuộc sống, chúng ta không bao giờ cô đơn, vì có Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn và ban sức mạnh cho ta.

2. Nhờ tình yêu con người không bị mồ côi.

Đức Giêsu đã quả quyết với các tông đồ trước khi ra đi "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi". Câu nói đó ngầm hiểu sẽ có Ngài ở bên khi không có Ngài. Nghĩa là người sẽ trở lại không phải trong thân xác này, nhưng là thân xác sau khi Phục Sinh. Chắc chắc lúc đó các tông đồ không thể hiểu được lời Đức Giêsu, chỉ khi được ánh sáng Phục Sinh chiếu soi thì họ mới hiểu rõ: Thầy mình đã đi thật, thế gian không còn thấy Người nữa, vì Người đã chết theo xác thịt; nhưng Người đã trở lại với các môn đệ trong những lần tỏ mình ra. Và nhất là sau khi được lãnh nhận Thần Khí, họ cảm thấy như Người đang ở gần họ, Hơn thế, ta thấy thời Giáo Hội sơ khai đã trải qua bao bắt bớ thử thách, phải sống trong gông cùm xiềng xích, sống trong cảnh đầu rơi máu chảy dưới tay bạo chúa. Nhưng "Thân thể Chúa Kitô" vẫn sống và phát triển mạnh mẽ, vì luôn có "Đầu" là Đức Kitô bên cạnh. Điều này giúp ta luôn xác tín Ngài luôn ở với ta, và trong ta cả khi ta không thấy Ngài.

3. Nhờ tình yêu con người được tình yêu.

Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc của một người là biết yêu và được yêu . Qua câu nói của Đức Giêsu như kết quả của tình yêu cao cả "Ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến,và Thầy sẽ yêu nó và sẽ tỏ mình ra cho nó". Nhưng một sai lầm thường gặp của con người là cứ ngỡ mình được Chúa yêu đó là công trạng của mình, nhưng thực ra không phải. Vì khi ta chưa yêu Ngài hay thậm chí khi còn mang tội thì Ngài đã đã yêu ta và yêu từ ngàn xưa rồi. Chúng ta biết yêu chính là nhờ ơn ban như không của Ngài. Một tình yêu có sự liên đới hiệp thông như Chúa Cha đã yêu Chúa Con thế nào thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, vì tình yêu Chúa Ban Ngôi hiện diện trong ta, trong gia đình và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm thấy hoan lạc và bình an can đảm dấn thân mang tình yêu Ba Ngôi ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào mang có tình yêu Ba Ngôi, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạn, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen ghét... Chỉ khi nào tất cả mọi người đều được lãnh nhận tình yêu Ba Ngôi khi đó cộng đoàn, gia đình mới có tình yêu Chúa Kitô, chỉ khi nào cộng đoàn gia đình có tình yêu Chúa Kitô thì cộng đoàn gia đình mới là cộng đoàn đúng nghĩa; sinh động đầy sức sống và hiệp thông, vì cộng đoàn đó biết yêu như chính Chúa đã yêu.

Lạy chúa, chỉ có tình yêu mới giúp cho con người xoá bỏ được hận thù, chỉ có tình yêu mới làm cho đất nước được hoà bình, con người được ấm no, và có tình yêu đó mới làm cho con người được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, vì Chúa là tình yêu . Amen

YÊU CHO TRỌN
Ga 14, 15 - 21

Tình yêu nam nữ là đề tài tốn nhiều giấy mực lẫn thời gian nhất trong các đề tài. Từ cổ chí kim, từ người ít học đến bậc vĩ nhân, từ làng quê heo hút đến phố thị rộn ràng... không nơi đâu hay người nào lại không biết đến hay một lần nói về tình yêu, một thứ tình cảm tuyệt hảo nhưng không kém những hệ lụy. Euripide từng thốt lên: "Tình yêu là cái gì êm đẹp nhất và cay đắng nhất". Thế nhưng, hầu như ít ai chịu đứng ngoài cuộc của những hệ lụy đó, như ai đó đã nói đùa: "Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ; thà chịu khổ chứ không chịu lỗ". Nhưng theo chủ quan của tôi, sở dĩ yêu thì khổ là do chưa yêu thật lòng và không nắm bắt được quy luật của tình yêu. Bởi vì "yêu không phải là nhìn nhau, nhưng cùng nhau nhìn về một hướng" (Saint - Exupéry).

Từ tình yêu nam nữ tôi nghĩ về tình yêu của tôi với Thiên Chúa. Thần học Kitô giáo cũng đã không ngại hao tốn giấy mực để cố gắng diễn đạt mẫu tình yêu rất thiêng liêng này. Nhưng cũng có nhiều người ngày nay cảm thấy mệt mỏi, chán chường bởi đã "lỡ giữ" Đạo Chúa; hay nói khác hơn, họ không muốn giữ đạo nữa, bởi giữ đạo cực quá, Giáo Hội có nhiều luật lệ quá.

Không phải như vậy đâu bạn ơi! Việc bạn chẳng còn thấy Chúa hấp dẫn với bạn hay bạn thấy luật lệ trở thành gánh nặng cho bạn vì bạn đã không yêu Chúa và muốn Chúa đến với bạn nữa. "Khi yêu trái ấu cũng tròn" phải không? Ở đây, tôi nhấn mạnh đến một lý do khác, đó là bạn muốn biến Thiên Chúa theo cách thế của riêng bạn, và lúc đó bạn mới chịu đến với Ngài. Bạn đặt ra những tiêu chuẩn cho Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài. Tất nhiên, những tiêu chuẩn nầy hợp "gu" với bạn; nhưng thực tế, Thiên Chúa không là một thỏi vàng cho bạn đúc lên một chiếc nhẫn vừa tay bạn. Vậy bạn yêu Chúa hay yêu bản thân mình?

Tình yêu Thiên Chúa đi đôi với việc chu toàn lề luật của Ngài, "yêu thương là chu toàn lề luật" (Rm 13,8-10), "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Gn 14,15). Mà điều răn của Chúa là gì? Là "hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương" (Gn 15,12). Cũng đâu có gì vượt xa cái tự nhiên của con người đâu. Chẳng phải là mọi người đang rầm rộ kêu gọi hãy sống trong hòa bình, hợp tác, chia sẻ, yêu thương đó sao? Có khác là người Kitô hữu thương yêu tha nhân trong tình yêu của Đức Kitô, nhân danh tình yêu Ngài để hành động.

Ngày nay, người ta thường có khuynh hướng nhận lãnh tình yêu mà không nghĩ đến việc cho đi tình yêu, muốn được yêu nhưng ngại hy sinh cho tình yêu, muốn nhận Thiên Chúa là Chủ đời mình nhưng từ chối vâng phục Ngài. Thực ra, nếu chúng ta có hay không giữ các giới răn của Chúa, cũng không đem lại lợi ích gì cho Ngài (kinh Nguyện Thánh Thể), nhưng chắc chắn là có lợi cho chúng ta. "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (Gn 14,21).

Nói yêu thì dễ, nhưng hành động vì yêu thì không dễ. Bạn tuyên xưng mình là Kitô hữu, vậy bạn đã có hành động thiết thực nào để minh chứng cho niềm tin của mình chưa?

NẾU NÓI YÊU THẦY MÀ KHÔNG GIỮ LỜI THẦY LÀ MÂU THUẪN
Ga 14, 15 - 21
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi nói đến tình yêu, ai cũng biết nó là một khái niệm trừu tượng, vô hình, không thể nhìn thấy bằng giác quan. Tuy nhiên, nó lại hiện diện trong những gì là hữu hình. Nếu không chấp nhận sự hiện hữu của nó qua hành động thì tình yêu không còn chỗ đứng đúng nghĩa. Cũng thế, tôi không thể yêu một cái gì đó, như bông hoa, con chim... mà trước đó tôi không hề biết gì về nó hay không hề có một khái niệm nào về chúng. Còn khi nói về tình yêu giữa người với người, chúng ta không thể nói tôi yêu người này, người kia mà tôi lại chưa một lần nghe kể, giáp mặt với người đó! Yêu nhau, chẳng lẽ lại bảo tôi yêu trong tư tưởng, tôi yêu trong khái niệm...??? Khi nói về tình yêu, chúng ta không có một định nghĩa nào mang tính chuẩn mực cho mọi tình huống, nhưng chỉ có một điều cụ thể: tình yêu là tổng hợp của cả hồn lẫn xác.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu làm một cuộc trắc nghiệm và cũng như một điều kiện để biết được tình yêu của các môn đệ và cũng là của mỗi chúng ta với Ngài đang ở trong tình trạng như thế nào?.

1.      Yêu mến và giữ Lời Chúa

"Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14, 15). Lời nhắn nhủ này mang đượm tình nghĩa Thầy trò và có giá trị thiêng liêng khi mà tình cảnh chia ly sắp xảy ra với Đức Giêsu và các môn sinh trên bình diện tự nhiên để chuyển dần sang khía cạnh siêu nhiên.

Kẻ đi, người ở, biết bao là luyến tiếc, nhớ thương! Tuy nhiên, để hình ảnh của Thầy không bị lu mờ; tinh thần của Thầy không rơi vào quên lãng thì việc làm cho lời của Thầy sống động trong cuộc đời qua hành vi của mình là điều quan trọng. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14, 15).

Yêu, giữ và thực hành lời của ai, thì cho dù người đó không còn hiện hữu trên bình diện tự nhiên, thì khí cạnh siêu nhiên họ vẫn sống qua cuộc đời và nơi hành vi của người yêu còn sống. Cũng vậy, khi các môn đệ yêu mến và giữ lời Đức Giêsu truyền dạy, thì các môn đệ trở nên hiện thân của chính vị Thầy mà mình là những người đang tiếp bước.

Quả thật, như một hệ luận, khi lắng nghe và giữ lời của Đức Giêsu, ấy là lúc các môn đệ được đi vào trong trung tâm của tình yêu. Được trở nên những người công chính và Thiên Chúa sẽ công chính hóa những ai yêu mến Lời của Đức Giêsu cách trung thành và đầy lòng mến.

2.      Yêu và hành động

Yêu mến.... thì sẽ thực thi.... phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Đức Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Đức Giêsu gói trọn trong hai giới răn: "Mến Chúa và yêu người". Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: "Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).

Đức Giêsu không chấp nhận một tình yêu trên bình diện lý thuyết, từ chương, hay một thứ tình yêu "cưỡi mây về gió"; hoặc"mông lung". Vì thế, đã có nhiều lần Đức Giêsu phản đối những kinh sư và người Phrisêu: "Dân này Kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta" (Mt 15, 8); hay khi nói về tình yêu giả tạo, hào nhoáng, hình thức, Ngài nói: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế" (Mt 23, 27), bởi vì họ là những người "ngôn hành bất tất".

Như vậy, Đức Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu của người Tôi Trung với Thiên Chúa Cha và chiếu tỏa trên tha nhân trong vai trò là Đấng Cứu Chuộc.

Cùng một con đường, chung cách thể hiện, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ tiếp bước trên con đường mà Ngài đã đi, để tình yêu đó được nối dài, sống động và phong phú chứ không phải thứ tình yêu đóng khung, cứng ngắc.

Khi yêu như thế, các môn đệ đi vào trong một quỹ đạo của một tình yêu lớn hơn, được sống trong đó và tận hưởng tình yêu một cách sung mãn: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy" (Ga 14,21). 

Như vậy, chữ "nếu" không có nghĩa rộng là thích thì làm, không làm cũng chẳng sao. Nhưng chữ "nếu " mà Đức Giêsu muốn nói ở đây phải hiểu theo nghĩa hẹp, tức là điều kiện thiết yếu, không có không được. Chữ "nếu" ở đây liên kết hai mặt của một tình yêu, nó đóng vai trò trung gian duy nhất để như một điều kiện cần phải có: "yêu Chúa" "giữ lời Ngài" để từ đó phát sinh hệ luận là "yêu tha nhân như chính Thầy" (x. Ga 13, 34).

Như vậy, Đức Giêsu xác định thật rõ rằng: tình yêu chân chính thì phải được biểu lộ qua hành động. Không thể yêu cách vu vơ, chung chung...

3.      Sống lời dạy của Đức Giêsu trong đời sống kitô hữu

Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin không có hành động là đức tin chết" (Gc 2, 26). Tin Chúa, đi theo Chúa và yêu mến Chúa thì phải giữ lời và thi hành những gì Ngài truyền dạy. Đây là một điều khó khăn, không dễ. Nó đòi hỏi con người phải cố gắng, phải từ bỏ và phải yêu mến lời thực sự: "Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài" (Gr 15,16).

Sống trong thời buổi ngày nay, chúng ta cần phải trung thành với lời Chúa và can đảm thực thi Lời ấy trong cuộc sống, làm cho lời Chúa trở nên thực sự sống động qua cuộc đời chứng tá của mỗi chúng ta. 

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Trở thành môn đệ của Ngài. Như thế, điều mà Đức Giêsu muốn các môn đệ khi xưa cũng là điều mà Ngài muốn mỗi người chúng ta thi hành.

Thật vậy, chúng ta không thể nói yêu Chúa trên đầu môi chóp lưỡi. Yêu như thế là tình yêu giả tạo. Yêu như thế là chúng ta đang xúc phạm đến bản chất của tình yêu giữa ta với Đức Giêsu. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:  

"Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào". (Ca dao)

Nói yêu, nhưng không khai thông tình yêu đó bằng hành động thì chỉ như là một thứ tình yêu đất đá mà thôi.

Tuy nhiên, trái tim trai cứng, vô cảm này lại quá nhiều trong thời đại chúng ta. Nếu có ai đặt một câu hỏi: "Ông, bà anh chị em có yêu và tin Chúa không?" Có lẽ nhiều người trả lời là "có", nhưng cũng không ít người khinh thường người hỏi, vì cho rằng câu hỏi đó vớ vẩn! Có đạo mà lại không yêu Chúa thì phải chăng là người dở hơi! Nhưng nếu hỏi tiếp: "Vậy ông bà, anh chị em, giữ đạo hay sống đạo?" Tới đây, chúng ta bắt đầu khựng lại và có lẽ cảm thấy xấu hổ vì nhiều khi niềm tin của chúng ta ở trong chứng minh thư, trong sổ rửa tội, còn ở trong tâm, được thể hiện qua hành động thì ít lắm.

Một Giáo xứ toàn tòng Công Giáo, tức là 100% người theo đạo, nhưng nếu giữ đạo được khoảng 60% là tốt lắm rồi, con sống đạo đúng nghĩa, có lẽ đếm trên đầu ngón tay!

Đây là một thực trạng thật tại Việt Nam chúng ta.

Đến đây, xin được kể một câu chuyện có thật của một vị linh mục đã trọng tuổi, ngài sống ở Mỹ. Sau 50 năm, ngài mới trở về Việt Nam lần đầu, và nhân dịp gặp gỡ chúng tôi, ngài kể: "Cách đây 50 năm, tại đất nước Mỹ, người ta có lòng sùng đạo. Nhà thờ được xây cất rất nhiều, các cuộc rước linh đình, lòng sùng đạo rất tốt. Nhìn chung, tình hình giữ đạo rất giống Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau 50 năm, nhiều nhà thờ đã không còn có người đi lễ nữa. Nhiều dòng tu cũng vắng dần các ơn gọi trẻ. Đã có những nhà thờ và dòng tu phải bán đi vì không có tiền đóng thuế. Các linh mục phải đi theo họ đến những nơi du lịch để giải tội và dâng lễ. Nhiều Chủng Viện gom lại thành một, mà số lượng chủng sinh vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu có ai siêng đi lễ thì đôi khi nhận được những lời dè bửu và cho là bất thường. Những người được coi bình thường là cả đời người ta đến nhà thờ 3 lần: một lần Rửa Tội; lần khác là lễ cưới; và lần cuối cùng là chết. Trong ba lần đó, hai lần thụ động, tức là lúc Rửa Tội và lúc chết, còn một lần chủ động là lễ cưới. Điều đáng nói là dân Mỹ coi đây như là một thủ tục phải có trong đời mà thôi, và họ cho rằng mình thuộc thành phần bình thường".

Sau đó, ngài đưa ra nhận xét: "Nếu Giáo Hội Việt Nam không coi đó là kinh nghiệm cho chính mình, không tập trú vào việc đào tạo lương tâm, không có những hoạt động phù hợp... nhằm giúp cho con cái mình sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, thì tình trạng của Giáo Hội Mỹ cũng là hình ảnh, thực trạng của Giáo Hội chúng ta trong tương lai???".

Đến đây, xin để lại nơi bạn và tôi câu hỏi: "Bấy lâu nay, chúng ta đã thực sự sống đạo hay chỉ là giữ đạo vì sợ tội, sợ mất linh hồn, sợ mất danh dự, sợ bị mang tiếng...?"; "Phải chăng chúng ta đã, đang an tâm với những thành quả về số lượng, mà quên đi, hay không cú tâm đến chất lượng tâm linh?". Tưởng cũng nên nói thêm: giữ đạo là điều tốt, nhưng sống đạo mới là người trưởng thành.

Mong sao mỗi chúng ta cố gắng đan kết giữa việc giữ và sống đạo trong đời sống, để:"Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của những người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ" (Thánh Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 1).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ và một lòng mến dồi dào. Khi chúng con nói được rằng chúng con tin vào Chúa và thực thi giới răn của Ngài, thì chúng con biết sống những điều đó bằng một đời sống cụ thể. Ðể cuộc sống của chúng con là một chứng từ sống động cho mọi người nhận biết Chúa. Amen.

TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LÀ MẾN CHÚA THỰC SỰ
Ga 14, 15 - 21

1. LỜI CHÚA: "Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14,15).

2. CÂU CHUYỆN: TẤM GƯƠNG YÊU THƯƠNG CHẾT THAY CHO NGƯỜI KHÁC:

Một buổi sáng tháng 7 năm 1941, trong trại tập trung OS-WIC-CIM của Đức quốc xã tại nước Ba-lan, lính canh phát hiện có một tù nhân đã vượt ngục trong đêm. Theo thông lệ: mười tù nhân khác phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Bấy giờ tên trưởng trại lần lượt kêu tên mười tù nhân xếp hàng vào hầm chết đói. Khi nghe đọc tên, từng người run rẩy sợ hãi bước ra khỏi hàng tiến ra phía trước. Bỗng nhiên một người trong bọn nghe kêu tên đã bật khóc và la to lên: "Ối vợ con tôi ơi ! Thế là từ nay tôi không bao giờ được đoàn tụ với vợ con rồi".

Hàng ngàn tù nhân đứng xếp hàng đều hồi hộp nín thở và mừng thầm vì mình được thoát chết. Đột nhiên có một tù nhân dáng người gầy yếu đang từ trong hàng ngũ tù nhân bên trái tách ra tiến đến gần viên trưởng trại. Bấy giờ tên này liền rút súng lục đeo bên người ra chĩa nòng súng về phía người tù kia hỏi:

- Thằng kia, đứng lại ngay ! Mày muốn gì ?

- Tôi muốn chết thay cho một người trong nhóm mười người sắp bị trừng phạt kia.

Viên trưởng trại tỏ vẻ sửng sốt tưởng mình nghe lầm và hỏi:

- Tậi sao mày lại làm điều khờ dại ngu ngốc như thế ?

-Tôi là một linh mục công giáo không có gia đình, nên tôi xin chịu chết thay cho người có vợ con kia.

Cuối cùng, viên trưởng trại đã đồng ý theo lời yêu cầu và cho kẻ tình nguyện chết  nhập vào hàng người tiến đến hầm chết đói. Tù nhân nói trên không ai khác hơn là cha MA-XI-MI-LI-EN KÔN-BÊ.  Qua việc tình nguyện hy sinh tính mạng cho một người không quen biết, cha đã biểu lộ tấm lòng mến Chúa một cách rõ nét nhất. Hành động của cha khiến cho nhiều người từ cai ngục đến các tù nhân hiện diện đều nể phục và nhờ đó họ đã tin vào lòng Chúa thương xót. Về sau vào ngày 10/10/1982 tại Roma Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã phong cha Kôn-bê lên bậc hiển thánh để nêu gương thánh thiện thực sự cho các tín hữu chúng ta.

3. SUY NIỆM:

Nội dung Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su nhắn nhủ các môn đệ trước khi ra đi chịu khổ nạn như sau: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy" (Ga 14,15). Đức Giê-su không đòi các môn đệ phải yêu mến Người bằng thứ tình yêu cảm tính, dù tình cảm ấy cũng có giá trị thúc bách các ông hăng say phục vụ như lời thánh Phao-lô đã dạy : "Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5,14).

1) HAI LOẠI TÌNH YÊU:

Người ta thường phân chia tình yêu thành hai loại là tình yêu ích kỷ hoặc vị tha: 

* Tình yêu ích kỷ: Là thứ tình yêu giả dối, vì đối tượng không phải là tha nhân, nhưng là chính mình. Nói cách khác: người có loại tình yêu này chỉ coi người yêu như phương thế giúp họ tìm kiếm lợi ích bản thân.

* Tình yêu vị tha: Là thứ tình yêu đích thực, thể hiện qua việc quên mình để nghĩ đến người yêu và tìm làm những điều mang lại lợi ích thực sự cho họ. 

2) BA CẤP SỐNG ĐẠO: Dựa theo tiêu chuẩn tuân giữ lời Chúa mà người tín hữu được phân làm ba cấp như sau: 

* Một là người có đạo: Là những kẻ đã chịu phép thánh tẩy, nhưng không quan tâm học biết Chúa. Loai người này thường có thái độ vô tâm vô cảm, luôn làm ngơ trước những nhu cầu của tha nhân như dụ ngôn ông phú hộ làm ngơ trước anh La-da-rô nghèo khó bệnh tật đang nằm trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-21).

* Cấp hai là giữ đạo: Là những tín hữu có lối giữ đạo hình thức lễ nghi bề ngoài, không quan tâm sống theo Lời Chúa, và luôn chiều theo ý riêng của mình. 

* Cấp ba là sống đạo: Là những người vừa chu toàn luật đạo, lại vừa sống đức Tin cụ thể bằng việc thực hành đức Cậy là siêng năng đọc kinh dự lễ, và thi hành đức Mến là quan tâm phục vụ tha nhân như lời Chúa Giê-su phán: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

3) HÃY YÊU THƯƠNG BẰNG VIỆC LÀM

a) Thánh Gio-an dạy lòng mến Chúa phải thể hiện qua đức yêu người như sau: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy được" (1 Ga 4,20). Khi yêu thương phục vụ những kẻ đói khát, bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đang yêu thương và phục vụ chính Đức Giê-su (x. Mt 25,40).

b) Tình yêu phải biểu lộ qua một số hành động cụ thể như sau:

- Năng nghĩ đến và ước muốn gặp gỡ để tâm sự với người yêu lâu giờ.

- Luôn sãn sàng quên mình phục vụ tha nhân và làm cho họ được hạnh phúc.

- Quảng đại cho đi những món quà tình cảm mà không mong được báo đền. Yêu nhiều thì sẽ quảng đại cho nhiều mà không tính toán thiệt hơn.

- Không chấp nhất những sai lỗi nhỏ mọn về lời nói, những lối ứng xử vụng về... và  sẵn sàng chịu đựng cả những lầm lỗi khuyết điểm của họ.

- Hy sinh chịu thiệt thòi vì người yêu:  nếu cần người ta sẽ sẵn sàng chịu thiệt thòi về danh vọng, chức quyền, tiền bạc, của cải... để người yêu được hạnh phúc.

- Tình yêu sẽ lên đến tột đỉnh khi một người biết hy sinh tính mạng, như lời Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).  

4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?:

a) Điều quan trọng hiện nay là phải biết thể hiện lòng mến Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn như sau: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy". Nhưng giới răn ấy là gì? Giới răn quan trọng nhất là thương yêu anh em: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 12,34). "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (Ga 4,20).

b) Hiện nay nhiều người trong chúng ta đã thể hiện tình yêu bằng lời nói hơn là hành động: Có những đứa con lười biếng làm việc nhà, ăn nói dối trá, thích gây gỗ và đánh lộn với chúng bạn... gây phiền não cho cha mẹ và thầy cô. Có những ông chồng thường đi chơi tại những hộp đêm sang trọng, chơi bài bạc cá độ thua sạch tiền khiến vợ con lâm cảnh đói khát. Có những bà vợ ỷ mình có tiền nên ăn nói thô lỗ cộc cằn, ghen bóng ghen gió hoặc chấp vặt khiến chồng con phiền lòng...

4. THẢO LUẬN:

1) Yêu thương bằng việc làm là biết nghĩ đến người khác, xét đoán ý tốt và ước muốn điều tốt cho người mình không ưa, là sẵn sàng chịu đựng và khoan dung tha thứ những sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình, là quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, là năng thăm viếng an ủi những người đau khổ và giúp đỡ những người cô đơn, là săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật... Bạn đã thực hành được điều nào trong các điều này rồi ?

2) Trong những ngày sắp tới, bạn quyết tâm sẽ làm gì để sống tình yêu thương cụ thể đối với tha nhân ?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời chúng con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa, bình an làm cho chúng con vững tâm khi gặp phải các cơn sóng gió giữa biển đời. Xin ban cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui rạng rỡ. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần sẽ biến đổi cuộc đời chúng con ngày một nên giống Chúa Cha trên trời.

- LẠY CHÚA. Qua Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng Chúa muốn chúng con tuân giữ các huấn lệnh vì lòng yêu mến Chúa, hơn là để được ban thưởng hạnh phúc thiên đàng, và không dám phạm tội trọng chỉ vì sợ bị Chúa phạt xuống hỏa ngục đời đời. Xin giúp chúng con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Me Ma-ri-a: Luôn lắng nghe lời Chúa và mau mắn thưa xin vâng. Cho chúng con biết quan tâm tìm hiểu nhu cầu của tha nhân và sẵn sàng đáp ứng. Cho chúng con luôn nghĩ đến những người bệnh tật, nghèo khổ và bất hạnh, để chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ chứng tỏ lòng mến Chúa thực sự và xứng đáng được liệt vào số các môn đệ trung thành với Chúa đến cùng.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH -  HHTM

THẦN TÌNH YÊU VÀ CHÂN LÝ
Ga 14, 15 - 21
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

Henry Manning vốn là một mục sư Anh giáo, nổi tiếng về giảng thuyết. Ngài xuất bản một cuốn sách về các bài giảng và được dân chúng hưởng ứng nồng nhiệt.

Một hôm, có người bạn thân ghé thăm và bình luận về tác phẩm mới phát hành của Henry. Trong câu chuyện, người bạn đề cập đến việc tác giả đã không có một lời nói nào về Chúa Thánh Thần trong cuốn sách rất "giá trị" của mình.

Đây là một sự thiếu sót ngoài ý muốn của Henry. Ngài cám ơn ý kiến chân tình của người bạn. Thế rồi suốt hai năm tiếp theo, người ta thấy mục sự Henry Manning miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ngài đọc và nghiên cứu tất cả những cuốn sách liên quan đến đề tài Chúa Thánh Thần. Kết quả của sự học hỏi chân thành này là việc khám phá Ánh Sáng do Thần Chân Lý mang lại. Henry đã trở về với Giáo hội Công giáo vào năm 1851. Hai tháng sau ngài được phong chức Linh mục. Năm 1865, ngài trở thành Tổng giám mục Giáo phận Westminter, Anh quốc.

Tại Công đồng Vaticanô I (1869-1870), Giám mục Henry Manning nổi bật trong vai trò bảo vệ vững chắc tính chất Vô ngộ của Đức giáo hoàng. Năm 1875, ngài được tấn phong Hồng y. Từ khi trở lại Công giáo cho đến lúc qua đời năm 1892, Đức Hồng y Manning luôn có lòng yêu mến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt.

"Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Bàu Chữa khác để ở cùng các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì nó không thấy cũng không biết Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở mãi nơi các con và trong các con" (Ga 14,16-17).

Đó là lời hứa mà Chúa Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, đã trao lại cho các môn đệ như một lời an ủi thân tình.

Chúa Thánh Thần là Đấng Bàu Chữa. Ngài là luật sư biện hộ cho những tín hữu khi phải đương đầu với những mưu mẹo ác độc của thế gian. Ngài đem đến tất cả sự thật và làm chứng về Đức Kitô. Dưới ánh sáng và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người sẽ tìm thấy chân lý toàn vẹn trong Chúa Giêsu.

Chúa Thánh Thần là Tình yêu liên kết. Ngài cũng là Thần Chân lý, Đấng dạy người ta yêu thương trong sự thật. Tình yêu trong chân lý mới là tình yêu toàn vẹn, vì được Thiên Chúa Ngôi Ba tác động và dẫn lối.

Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban sẽ dẫn đưa con người bước đi trong yêu thương và sự thật. Không phải cứ hễ yêu nhau là cái gì cũng có thể trao ban hay lấy đi. Những quan hệ bất chính, những kiếm tìm bất công, những đam mê bất hợp pháp đều là những nẻo đường đưa đến bất hạnh. Bởi vì thiếu chân lý là thiếu tự do và hạnh phúc : "Chân lý sẽ giải thoát con người," Đức Giêsu đã nói với Philatô như thế.

Yêu thương phải song hành với sự thật. Để sống yêu thương trong sự thật, lắm khi người ta phải dám chấp nhận hy sinh rất nhiều.

Cha Flor McCarthy, một linh mục Dòng Don Boscô có kể lại rằng:

Steve, cậu bé 12 tuổi, đã bị teo hai chân sau một cơn sốt tê liệt. Steve có đức em 10 tuổi tên Mark. Như bao đức trẻ khác, Steve và Mark cũng hay cãi nhau, đánh nhau, và đôi khi Steve còn cảm thấy ghen tị với đôi chân khỏe mạnh của em mình.

Một đêm kia Steve mơ thấy mình đi lạc vào một khu rừng vắng. Cậu bắt gặp một chiếc hang. Bị thúc đẩy bởi lòng mạo hiểm và tính tò mò, Steve tiến sâu vào bên trong. Bất ngờ một ông già xuất hiện. Ông ta tự xưng là phù thủy, và để thưởng cho ai đầu tiên khám phá ra chiếc hang, ông sẽ ban cho người đó được những gì họ mong ước, nhưng chỉ một lần thôi.

Không cần suy nghĩ, Steve xin ngay cho đôi chân được khỏe mạnh như xưa. Lão phù thủy liền tung chiếc áo choàng lên và trong nháy mắt Steve thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh Mark đang ngủ say như chết.

Lão phù thủy mở tấm mền che đôi chân của Mark ra. Steve thấy vậy thì ngạc nhiên hỏi:

- "Ông làm gì thế ?"

- "Ta phải giải phẫu để thay cho ngươi đôi chân tốt."

- "Thế ông tính thay đôi chân của Mark cho tôi à?" Steve ngạc nhiên hỏi lại.

Ông già đáp:

- "Vậy chứ ngươi tưởng ta lấy nó từ trong không khí ra à? Nhưng không sao đâu. Chẳng ai biết chuyện gì xảy ra đâu. Mọi người sẽ coi như đãxảy ra như từ lúc mới sinh vậy."

Steve cảm thấy sửng sốt. Nó đâu ngờ là ông già phải lấy đôi chân của Mark để đổi cho nó. Cậu bé nghĩ đến giây phút mình chạy nhảy với đôi chân tốt, trong khi Mark em cậu sẽ lê lết với đôi chân bại liệt. Như thế là không thể được! Rồi Steve hét lớn: "Tôi không muốn như vậy đâu". Nghe thế lão phù thủy bực mình bỏ đi.

Sáng hôm sau, thức dậy nhìn qua em mình, nhớ lại những gì thấy được trong giấc mơ đêm qua, Steve đã nở một nụ cười rất vui.

Điều tôi đọc được trong nụ cười của Steve là một tình yêu song hành với chân lý. Từ trong tiềm thức, cậu đã không muốn làm điều xấu, dù rằng phần lợi sẽ về mình và dù rằng không ai biết. Nhưng chấp nhận cuộc sống trong một tình yêu chân thành, Steve đã không những không hủy diệt sự sống của người khác, những còn làm phát sinh trong tim mình bình an và niềm vui thẳm sâu.

YÊU MẾN THẦY THÌ GIỮ GIỚI RĂN THẦY
Ga 14, 15-21
Lm Raymond Châu Diên, CMC
Hội Y học Mỹ có mở một cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ chuyên môn. Họ hỏi các bác sĩ: "Trong một tuần lễ, có bao nhiêu phần trăm bệnh nhân mà y khoa đã chữa được?" Các câu trả lời khiến chúng ta sửng sốt. Các bác sĩ cho rằng dùng thuốc men, họ chỉ điều trị được 10 phần trăm, 90 phần trăm còn lại, các bác sĩ cho rằng những bệnh nhân này thực sự có đau đớn, nhưng vấn đề của họ không thuộc lãnh vực hóa học hay vật lý mà tâm lý. Nói cách khác, đó là vấn đề cuộc sống. Những nguyên nhân thực sự của nỗi đau nơi họ là những cảm xúc tiêu cực như lo sợ, cô đơn. Buồn chán, lo sợ, cô đơn là cơn bệnh nổi tiếng của thời đại chúng ta.

Sau khi Chúa nói với các môn đệ, Chúa sắp xa các ông, các ông lo buồn. Chúa thông cảm yên ủi họ. Chúa nói với các môn đệ: "Các con đừng bối rối cũng đừng sợ hãi" (Ga 14,27). Hơn nữa, Chúa đã chỉ dạy các ông một cách sống, đã đưa các ông đến một chiều kích mới, cao cả hơn. Chúa dạy: "Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con."

Trước tiên, Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới chiều kích thiêng liêng. Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ sẽ đến với các môn đệ, ngự nơi tâm hồn họ để họ có thể gặp Chúa mọi lúc. Chúa Thánh Thần là bằng chứng tình Chúa yêu họ, Ngài sẽ yên ủi, giúp đỡ họ trong mọi sự.

Henry Drummond suy luận như sau: Giả sử Chúa Giêsu không rời các môn đệ; giả sử Ngài còn ở thế gian bây giờ. Giả sử Ngài còn ở Thánh Địa, ở Giêrusalem. Mọi chuyến tàu, mọi chuyến bay đổ dồn về Trung Đông để gặp Chúa Giêsu. Mọi kiện thơ gồm toàn những lá thư của những người gặp khó khăn, thử thách. Giả sử anh hay chị đáp chuyến bay có ý đến gặp Chúa Giêsu. Xuống phi trường, anh hay chị nhập vào đám đông triệu triệu người chờ đến lượt mình. Vì quá đông nên anh hay chị chờ hoài mà chẳng bao giờ thấy bóng Chúa Giêsu.

Đời chúng ta nhiều lúc gặp đau khổ, lo buồn, nhưng chúng ta tin chúng ta luôn luôn có Chúa ở với chúng ta, yêu thương nâng đỡ chúng ta. Chúa biết mỗi người chúng ta đều có nhu cầu căn bản là ban phát và nhận lãnh tình yêu. Chúng ta luôn yêu và đón nhận tình yêu từ tha nhân, nhất là từ Thiên Chúa, nguồn mọi tình yêu. Yêu Chúa và Chúa yêu chúng ta hết lo buồn cô đơn.

Sau nữa, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cuộc sông thực tế. Ngài nói: " Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con" (Ga 14,15.21).

Giới răn của Chúa là gì? Chính Chúa Giêsu nhắc lại Cựu Ước : "Ngươi hãy yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, hết sức ngươi; và yêu tha nhân như chính ngươi" (Mc 12,30-31). Chúa còn nói rõ hơn: "Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu nhau như Thầy yêu các con." Chúa muốn chúng ta, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu tha nhân. Chúng ta không phải làm gì lẫy lừng nhưng hãy yêu thương những người chung quanh.

Khi chúng ta yêu thương giúp đỡ người khác, Chúa sẽ làm chúng ta hết lo buồn và sẽ ban ơn cho chúng ta. Mục sư King Duncun nói với những người buồn khổ là họ hãy tìm giúp đỡ những người đang buồn khổ thì tự nhiên mình sẽ thấy tươi vui. Ông thường nói: "Có 10 cách để thoát khỏi buồn khổ. Thứ nhất là giúp người khác, và tiếp tục làm như vậy chín lần." Mẹ Têrêsa Calcuta đã chứng kiến nhiều về lòng người của những người đau khổ. Một lần Mẹ đem cho một gia đình đã nhịn đói mấy ngày 5 ký gạo. Vừa nhận được gạo, người đàn bà đó chia làm đôi và mang đi khỏi nhà và một lát sau trở lại tay không. Mẹ Têrêsa hỏi thì bà trả lời: "Gia đình bên cạnh đây cũng không có gì ăn mấy hôm nay, nên con chia cho họ một nửa." Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm đến tha nhân vì Chúa muốn chúng ta làm vậy. Chúa dạy chúng ta yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta.

Chúng ta hãy xem huấn lệnh của Chúa Giêsu như lời mời gọi yêu thương. Để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu thương anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta yêu Chúa và chu toàn giới răn yêu thương, Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở với chúng ta, chúng ta không còn mồ côi, buồn khổ.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH
Ga 14, 15 - 21
Lm Nguyễn Bình An

Như vô tình Chúa gặp gỡ và gõ cửa lòng người thiếu phụ Samaria bên bờ giếng. Coi thường thành kiến và dị nghị, Chúa lưu lại vài ngày để truyền rao ơn giải phóng và hình thành tiểu tổ tín hữu đầu tiên tại Samaria. Khi Philipphê xuất hiện, họ niềm nở đón tiếp, lắng nghe và tin tưởng. Qua Phêrô và Gioan họ lãnh nhận Thánh Linh. Từ đó, Samaria không còn là vùng đất kiêng kị và cần xa lánh, nhưng là tiểu tổ đáng yêu của nhiệm thể Chúa Kitô. Ơn Chúa Thánh linh tác động thật tài tình và không ai hiểu thấu!

Thánh Linh qui tụ nhân loại vào một mối, không phân biệt phong tục, tiếng nói, mầu da và văn hóa. Thánh Linh kết thân mọi dân nước, xoá bỏ hiềm thù và tạo cảm thông. Thánh Linh thôi thúc mọi lứa tuổi sống đức tin và hoạt động trong những phạm vi đặc thù. Thánh Linh khơi dậy những nguồn sống mới thích nghi với mỗi thời. Thánh Linh canh tân, biến đổi và sửa sai Giáo hội theo tinh thần trách nhiệm và tạo cho Giáo hội một bộ mặt mĩ miều. Thánh Linh chính là Nội tướng của mỗi tâm hồn, đưa chúng ta ra khỏi tình trạng thỏ đế, vững tin bước vào đời và sống chứng nhân giữa đời.

Bước đầu chúng ta nhát sợ, luống cuống vì thiếu niềm tin, mặc cảm yếu hèn, lẻ loi và cô độc. Lúc ấy chúng ta như một em bé ngày đầu tiên lên trường một mình. Bước ra khỏi nhà mà mắt còn rướm lệ vì "con đã lớn rồi! mẹ không thể dẫn con đi hằng ngày." Tại ngã tư chúng ta còn ngoái cổ lại nhìn ngôi nhà thân thương, và chợt thấy mẹ vẫn đứng trông theo sau bức rèm. Mẹ như thầm nhủ rằng "can đảm lên con! mẹ vẫn âm thầm theo dõi và ngó chừng con!"

Chúa Kitô đã chuẩn bị ngày ra dàn của các tín hữu tương tự như thế. Sau những chuỗi ngày cùng sống, cùng chơi, cùng học, cùng tôn thờ và củng cố đức tin trong vô tư và vô trách nhiệm, Chúa sai chúng ta vào đời trong tư thế là người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, chủ chăn và thầy dạy. Tinh thần tự tin dần dần phát triển. Năng khiếu, tài quán xuyến và chỉ huy bộc phát. Tâm tình cậy nhờ và nương bóng đã biến mất. Chúng ta đủ nghị lực phấn đấu, sinh tồn, hoạch định và phát triển. Đồng thời chúng ta lưu giữ tinh thần "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" quay về yêu thương, giúp đỡ và chăm sóc cái cội nguồn mà từ đó chúng ta phát sinh, trưởng thành và vào đời.

Chúa Kitô ân cần căn dặn và chuẫn bị chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, lo sợ và khổ đau. "Thế gian sẽ giét các con, hãy nhớ là họ đã ghét Ta trước" (Jn15,18). "Các con sẽ khóc, sẽ than khi thế gian mừng rỡ. Các con sẽ ưu phiền, nhưng ưu phiền sẽ thành niềm vui" (Jn 16,20). Thấy được tâm tình bất an và khiếp đảm nơi các môn đệ, Chúa Kitô nhấn mạnh "Ta đi thì tốt hơn cho các con... vì Đấng Phù Trợ sẽ đến... Ta không bao giờ để các con mồ côi đâu" (Jn 14,15-17). Giáo hội đã, đang và sẽ phải trải qua và chấp nhận những giai đoạn bất ổn và đau thương này. Giáo hội đã kiên cường sống đức tin, cảm hóa nhân loại bằng yêu thương và đang chiêu hồi những hổ mang, rắn lục, gấu beo... bằng nhân nghĩa và tình thương. Khi nào không còn hận thù, ghét ghen, bất công, bất nhân... trên mặt đất thì bấy giờ sứ mạng của Giáo hội mới hoàn tát và viên mãn.

Chúa dùng các môi trường khác nhau để chúng ta thi thố tài năng, biểu lộ đức tin, tự lực cánh sinh và hành trình về nước trời. Chúa tôn trọng quyền sống, quyền lựa chọn và quyền sáng kiến của mỗi tín hữu. Bởi vậy nhân sinh đa dạng là sắc thái trăm hoa đua nở trong vườn hoa thánh, luôn được khích lệ theo ơn Chúa Thánh Linh. Bao lâu nguyên tắc căn bản "nếu các con thương mến Ta, hãy cẩn trọng thực thi giới lệnh Ta trao là các con hãy thương yêu nhau" (Jn 14,15) được thực thi thì bấy lâu lộ chúng ta hành hương là nẻo thanh quang và chính trực. Và chính Ngài, sau rèm đang nâng đỡ và dõi theo, là nguyên nhân và động lực thánh dẫn độ chúng ta.

ĐẤNG BẢO TRỢ
Ga 14,15-21
Br John Hoàng Hiệp Nghĩa, CMC

Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại, và thầy trò thỏ thẻ những lời tâm huyết trong một căn phòng bé nhỏ. Ngài đã loan báo và hứa xin với Chúa Cha cho các môn đệ một "Đấng Bảo Trợ" khác mà Ngài gọi là "Thần Chân Lý". Thần Chân Lý theo tiếng Hy Lạp, Parakletos, có nghĩa là Đấng Trạng Sư, Biện Hộ, Cố Vấn, Cầu Bầu, Bảo Trợ, và là Đấng Chuyển Cầu. Những danh từ này chỉ tìm thấy trong Phúc âm thánh Gioan, và có năm đoạn trong lời đàm thoại chia tay liên quan tới - Đấng Bảo Trợ - Chúa Thánh Thần.

Lần thứ nhất ở Jn14, 16-17, Chúa Giêsu hứa "Đấng Phù Trợ" khác sẽ đến và ở với các môn đệ luôn mãi.Lần thứ hai ở Jn 14, 26, "Đấng Phù Trợ" là Thánh Thần, chính Người sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các ông tất cả những gì Chúa đã nói với các ông. "Đấng Phù Trợ" được nhắc đến lần thứ ba trong Jn 15, 26-27, "Đấng Phù Trợ" sẽ đến; Người là Thần Chân Lý, sẽ làm chứng về Chúa. Lần thứ tư ở Jn 16, 7-11, "... vì nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ "sẽ không đến với các con."Lần sau cùng ở Jn 16, 13-15, "Thần Chân Lý" đến và sẽ dạy các môn đệ tất cả sự thật.

Nhìn thấy nét mặt của các môn đệ không vui, Chúa đã hứa không để các ông mồ côi, "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con" (Jn 14,18), và Chúa còn hứa xin với Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ khác cho các ông. Chúng ta thử hỏi tại sao Chúa Giêsu lại hứa xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ? Phải chăng các ông bối rối vì sự ra đi của Chúa? Hay có phải các ông đau buồn vì cảnh thầy trò phân ly? Cũng vì lòng thương yêu mà Chúa đã trấn an các môn đệ bằng những lời êm dịu, "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Gn 14,1-2). Vì không muốn thấy các môn đệ bơ vơ, hoảng sợ, nên Chúa đã hứa xin "Đấng Bảo Trợ" khác cho các ông.

Đấng Bảo Trợ Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần; Ngài sẽ đến để giúp đỡ các môn đệ như lúc Chúa Giêsu còn sinh thời. Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói với các ông. Ngài sẽ làm cho thành sự thật những gì mà các môn đệ đã "mắt thấy tai nghe" tồn tại mãi trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đến sau Chúa Giêsu để tiếp tục chương trình cứu chuộc mà Chúa Cha đã an bài.

Quả thật, lời hứa của Chúa Giêsu đã thành sự thật. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh thần đã hiện xuống để khai mạc những trang sử đầu của Giáo hội. Ngài chính là nguồn sinh lực của Giáo hội và của mỗi người chúng ta; chính Ngài thánh hóa và ban mọi ơn cho chúng ta. Chúa Thánh Thần còn là nguyên lý cho mọi sinh hoạt của Giáo hội và mỗi người chúng ta; hay nói cách khác, Ngài ban sự sống cho tất cả ngay từ tạo thiên lập địa cho đến ngày sau hết. Ngài hiện diện cách vô hình, và Ngài vẫn còn tiếp tục phù giúp, ban ơn, và thánh hóa mỗi người chúng ta.

Thường thường ta hay cầu nguyện và tập trung mọi chú ý tới Chúa Giêsu, và công trình cứu chuộc của Ngài, mà quên rằng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, và Chúa Cha gắn liền mật thiết với nhau. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thật đáng tiếc và đáng trách biết bao khi chúng ta lãng quên, chưa biết, hoặc biết rất ít về Ngài.

Chúng ta hãy xét lại đâu là căn nguyên làm cho chúng ta quên "Đấng Bảo Trợ" của mình? Đâu là nguyên nhân làm cho chúng ta ít nhớ tới hoặc ít cầu nguyện với Chúa Thánh Thần? Có thể trong đời sống của chúng ta vì bận bịu mà ta quên Ngài? Phải chăng vì sống giữa một thế giới xô bồ, đầy nhộn nhịp, đầy vật chất làm chúng ta quên Ngài? Hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã hứa gì cho các môn đệ và cũng là cho mỗi người chúng ta.

Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống sắp tới.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH
Ga 14, 15 - 21
Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê

Chúa nhật cuối của Mùa phục sinh chuẩn bị cho Lễ Hiện Xuống. Phụng vụ trình bày Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần, Đấng đã làm cho Ngài sống lại, Đấng mà Các Tông Đồ, nhân danh Đức Giêsu thông ban cho những người Samaria khi lãnh nhận phép rửa."Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Phù Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi", Đức Giêsu hứa như thế trong bài tin Mừng. Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô nói: "Đức Kitô đã chết một lần vì tội lỗi...nhưng nhờ Thần Khí Người đã được phục sinh" (Bài đọc 2). Và Thánh Luca trong bài sách công vụ tông đồ, thuật lại việc Phêrô và Gioan "cầu nguyện cho những người dân Samaria để họ nhận được Thánh Thần" (bài đọc 1).

Sứ Điệp Niềm Tin
Trong lịch sử cứu độ, có sự diễn tiến hài hòa các biến cố biểu hiện tác động của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhằm cứu độ con người. Chúa Cha là nguồn mạch mọi chương trình cứu độ. Vì tình yêu đối với nhân loại, Ngài đã sai Con của Ngài đến để cứu độ con người và phục hồi lại địa vị làm con. Một khi Chúa Con hoàn tất sứ mạng của Ngài trên trần gian, Thánh Thần được gởi đến để đồng hành với con người trong cuộc lữ hành trần gian tiến về Chúa Cha. Phụng vụ hôm nay trình bày Đức Giêsu hứa với các môn đệ rằng Ngài sẽ gởi Thánh Thần đến, để Ngài ở với họ luôn mãi. Vì sao Đức Giêsu Kitô hứa với họ như thế? Để các ông không cảm thấy mồ côi, vì Đức Giêsu sắp phải chết và trở về nhà Chúa Cha. Đức Giêsu bảo họ: "Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ đến cùng anh em" (tin Mừng) không phải bằng chính con người của Ngài, nhưng nhờ Thánh Thần. Thánh Thần mà Đức Giêsu hứa, trước tiên là Đấng Bảo Trợ, nghĩa là Đấng an ủi, trạng sư, đấng ban sự sống, Đấng sáng soi. Các môn đệ và các kitô hữu tiên khởi đã có kinh nghiệm đặc biệt về sự hiện diện quyền năng và soi sáng của Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Ngài cũng là Thần chân lý, mạc khải Thiên Chúa cho con nguời, nhờ Ngài Thiên Chúa soi sáng cho mọi người biết được ý nghĩa đích thực của đời mình và lý do hiện hữu của mình. Chân lý này được các môn đệ chấp nhận, công bố và tuyên xưng, bảo vệ chống lại sự dối trá của thế gian. Hơn nữa, Ngài còn là Thần Khí ban sự sống, Đấng đã phục sinh Đức Giêsu (bài đọc 2) và soi sáng trí lòng các kitô hữu tin nhận Tin Mừng, như trường hợp các người dân Samaria (Bài đọc 2). Thần Khí sự sống của Thiên Chúa là chính sự sống, mà Ong Môsê đã thấy nơi bụi gai bốc cháy nơi chân núi Sinai, vẫn tiếp tục bùng cháy lên không bao giờ tàn lụi. Sau cùng, Thánh Thần là Đấng thúc đẩy việc rao giảng tin Mừng, cả cho người do thái lẫn dân Samaria, dân ngoại. Vì thế, các nhà chú giải sách Công Vụ nói đến ba lễ Hiện Xuống, hiện xuống của người do thái tại Giêrusalem (Cv 2) hiện xuống của người dân Samaria (Cv 8) và hiện xuống của dân ngoại (Cv 10). Cùng với việc nhận lãnh Thánh Thần, việc rao giảng Tin Mừng thu lượm nhiều kết quả và càng ngày càng có nhiều người tin vào Đức Kitô. Bằng cách này, Thần Khí đã làm những lời của Đức Giêsu trở thành hiện thực: "Ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình cho người ấy".

Gợi Ý Mục Vụ
Những ai sống thánh đều hiểu và kinh nghiệm rằng Thiên Chúa luôn thực thi lời Ngài hứa. Đối với các kitô hữu tiên khởi, đây là một sự thật không thể chối cãi được. Tuy nhiên lời hứa của Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục được thực hiện giữa nhân loại ngay cả hôm nay. Dĩ nhiên, ta cần phải ý thức rằng Thiên Chúa không hứa ban thứ hạnh phúc như kiểu trần gian.

Ngài không hứa một "Giáo Hội" không có vấn đề hoặc không có những bất đồng, không có những anh chị em sai lỗi, luôn tử tế và nhã nhặn. Ngài không hứa giải thoát chúng ta khỏi mọi vu khống, bách hại, thờ ơ, khỏi cách cư xử xấu và ngay cả tử đạo. Ngài chỉ hứa ban Thánh Thần, Thần Khí của Ngài để cho ta có thể hạnh phúc một cách mới mẻ, khác với tâm thức của người trần gian.

Ngài ban cho ta một cái nhìn mới về thế giới và về Giáo Hội với lòng tin, lạc quan, bình an và lòng mến. Ngài ban cho ta một trái tim quảng đại để rộng mở đón nhận các anh chị em trong lòng tin cùng với những nỗi yếu đuối khổ đau của họ, cùng với những phẩm tính và nhân đức của họ, cùng với lòng tin chân thực, lòng cậy trông và lòng mến của họ. Ngài ban cho ta ơn tìm kiếm tự do đích thực, tự do nội tâm và từ đó có thể giúp giải thoát mọi người khác khỏi thế lực xấu của thế gian.

Bởi vì Thiên Chúa luôn thực hiện lời Ngài hứa, cộng đoàn chúng ta phải hân hoan và kiên vững trong lòng tin. Thay vì muốn nhắm mắt trước những sự dữ đang xảy ra, lời Chúa hứa luôn tiếp tục được hiện thực giữa cộng đoàn chúng ta. Nếu ta không nhận ra, có lẽ vì đức tin ta còn yếu kém hoặc có khi bệnh hoạn chăng?

Trái lại, khi lưu tâm đến những nghi hoặc những rắc rối của các kitô hữu trong việc hiểu và sống đức tin của họ, sự hiện diện của Thần Chân lý sẽ làm cộng đoàn kitô hữu vững mạnh và xây dựng một lòng tin mạnh mẽ. Niềm tin của ta không cậy dựa nơi loài người, cho dù có tương đắc đi chăng nữa, cũng không cậy dựa nơi các thiên sứ, nhưng chỉ cậy dựa vào Thần Khí Chúa, Thần Chân Lý, Đấng là Thầy dạy tâm hồn, chứng thực mạc khải của Thiên Chúa và thúc đẩy sự đáp trả lòng tin của con người.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH
Ga 14, 15-21
Gm Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốcThiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Đức Giêsu Kitô, là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy, là vâng lời.

Đó chính là bí quyết Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Đức Giê-su nói trong Tin Mừng hôm nay :"Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người". Chỉ có các môn đệ được trang bị cặp mắt tin và yêu mới nhìn thấy, mới nhận biết và mới lãnh nhận được. Cũng như kiến thức y khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc của nhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loài cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ không coi việc Đức Giêsu về trời là một chuyến đi rất xa, đi vào quên lãng, vắng mặt, nhưng ta sẽ thấy Người hiện diện mãnh liệt hơn bao giờ hết. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể. Người ở đó trong Sách Thánh. Người ở đó trong những lời giáo huấn của Giáo hội, Người ở đó trong những chia sẻ vui buồn. Người ở đó trong những anh em sống quanh ta.

Với đức tin và tình yêu, ta không cảm thấy Chúa Thánh Thần chỉ là một làn gió mơ hồ, như một ảo ảnh, nhưng ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Người, khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là : Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiện của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Đức Giêsu nói : "Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy".

Đức Giêsu ở trong Chúa Cha, ta ở trong Đức Giêsu, như vậy ta cũng ở trong Chúa Cha. Và Đức Giêsu ở trong ta, như vậy Chúa Cha cũng ở trong ta. Ở trong người nào tức là ở trong trái tim của người ấy. Ở trong trái tim của ai tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở : mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Đức Giêsu nói :"Thầy sẽ không để anh em mồ côi". Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ra đi của Đức Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người đem đến cho ta Chúa Thánh Thần an ủi. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sống sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Đức Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Đức Giêsu căn dặn : "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy". Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó chính là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

LỆNH TRUYỀN VÀ LỜI HỨA
Ga 14,15-21
Sr Mai An Linh, OP
Chu đề lớn của phụng vụ Lời Chúa tuần này là : Hãy tuân giữ những lệnh truyền của Chúa Giêsu để được nhận lãnh Thánh Thần. Các tín hữu tiên khởi đã giữ lương tâm ngay thẳng, ăn ở hiền hòa dù có phải chịu đau khổ, nhưng giữ được điều Thiên Chúa muốn (x. 1Pr.3,16-17) và chính vì cách sống ấy đã lôi kéo nhiều người trở lại với Chúa nên vị tông đồ trưởng phải đến Samari cầu nguyện cho họ để họ lãnh nhận Chúa Thánh Thần như lời Chúa Giêsu đã hứa.(x. Cv.8,14-15). Tuy nhiên muốn được Đấng Bảo Trợ đến thì các tín hữu phải yêu mến Chúa bằng cách giữ các điều răn của Ngài (x.Jn.14,15-16).

Tình yêu và lệnh truyền :Tình yêu và lệnh truyền liên hệ với nhau rất mật thiết. Giữ lệnh truyền không phải là hậu qủa, mà là bản chất của tình yêu đối với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ cho phép tình yêu thóai hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu phải được biểu lộ trong sự tuân phục, như Đức Giêsu tuân pbục Thánh Ý của Thiên Chúa Cha vì Ngài yêu Cha. (x. Jn.15,10). Vì thế, chúng ta cũng phải yêu như Chúa yêu " yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con" (Jn13,34...). Lệnh truyền còn hệ tại lòng tin vào Đức Giêsu như là Đấng được Cha sai đến (x.Jn.16,27). Đó không phải là hai lệnh truyền tách rời nhau : tình yêu huynh đệ dựa trên lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng được sai đến để mạc khải và thực hiện tình yêu cứu độ của Chúa Cha cho hết mọi người. Nên trong 1Jn.3,23 đức tin và tình huynh đệ liên kết với nhau dưới một danh xưng lệnh truyền. Thành ra chúng ta phải yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, có nghĩa là theo gương Người và còn hơn thế nữa, do bởi tình yêu của Người.

Khi chúng ta yêu mến Chúa Giêsu thì sẽ được Thiên Chúa Cha yêu mến và tỏ mình...(x.Jn14,21b), điều này không có nghĩa là tình yêu của ta có trước, trái lại Thiên Chúa yêu ta trước (x.1Jn4,10.19). yêu mến Đức Giêsu tất yếu yêu thương anh em mình. Tóm lại là tin vào tình yêu Thiên Chúa, là lãnh nhận tình yêu ấy, là đi vào sức năng động của nó và lưu lại trong đó : " Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các con, hãy lưu lại trong lòng mến của Ta"(Jn 15,9-10a). Đối với các môn đệ, tiếp nhận tình yêu của Cha mà Đức Giêsu mạc khải, yêu mến anh em mình bằng tình yêu mà Đức Giêsu yêu mến họ, là yêu mến Đức Giêsu và Chúa Cha. Vì thế, trong tình yêu này, sự hiện diện của Đức Giêsu và của Chúa Cha được thể hiện : " Chúng ta sẽ đến với kẻ ấy và sẽ đặt chỗ nơi mình họ" (c.23). Đây chính là một sự hiện diện hỗ tương : các môn đệ lưu lại trong tình yêu Thiên Chúa, và Chúa Cha cùng Đức Giêsu đặt chỗ trong mình họ.Ban Thánh Thần

Thánh Thần có nhiệm vụ dậy dỗ để chúng ta hiểu những lời Chúa Giêsu nói. Ngài sẽ đào sâu đức tin cho chúng ta bằng cách làm cho chúng ta hiểu từ bên trong, cuộc đời và sứ điệp của Chúa Giêsu. Ngài củng cố đức tin của chúng ta cách vững vàng trước sự tấn công của trần gian và thúc đẩy chúng ta làm chứng những gì chúng ta đã biết (x. Jn.15,26-27). Ngài sẽ làm cho thế gian đã bất công khước từ Đức Giêsu phải bẽ mặt (x.Jn.16,7-11). Chính trong viễn tượng này mà Thánh Thần do Đức Giêsu hứa ban là Thần Khí sự thật. Ngài sẽ đem mạc khải của Đức Giêsu vào trong các tâm hồn, sẽ ban trí thông hiểu sâu sắc hơn về mầu nhiệm Đức Giêsu, về đời sống, cử chỉ, lời nói của Người; như thế, Ngài sẽ soi sáng cho chúng ta biết cách đương đầu với hòan cảnh mới.

Ngài cũng là Đấng Bầu Chữa, vì Ngài sẽ nâng đỡ các kẻ tin, tiếp tục công việc của Đức Giêsu, Đấng khi còn sống ở thế gian đã phù trợ các kẻ thuộc về Ngài (x.Jn.17,12). Đấng Bầu Chữa sẽ biện hộ cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha. Cũng vậy, để đứng vững trước những biến cố đau thương, các môn đệ cần có một sự nâng đỡ, một người hướng dẫn, một vị Bảo Trợ, cho đến bây giờ, Đức Giêsu đã phù trợ họ, duy trì họ hiệp nhất với nhau và giữ gìn họ cho Chúa Cha. Nhưng bây giờ chủ chăn ra đi, nên họ cần một vị trợ giúp khác. Vì thế, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến nhân danh Đức Giêsu (x.Jn.14,26) như Đấng thay thế Đức Giêsu để tiếp tục công việc của Người qua trung gian các môn đệ.

Nhưng để có thể nhận lãnh được Thánh Thần mỗi người chúng ta phải cầu xin với niềm tin tuyệt đối, Người sẽ ban Thánh Thần cho và phải cảm nhận thấy Ngài, biết Ngài, nhận ra sự hiện diện và sức tác động của Ngài nơi chúng ta cũng như nơi người khác và nơi thế giới. Chúng ta đang sống trong thời đại của Chúa Thánh Thần. Chúng ta phải lắng tai nghe tiếng Ngài dậy bảo và trung thành vâng giữ các lời khuyên dậy của Chúa qua các vị chủ chăn, để tình mến Chúa ngày càng triển nở nơi chúng ta, và đạt tới sự sống viên mãn của Chúa Kitô Phục Sinh.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống hiệp nhất với Chúa, thực thi ý Chúa bằng việc tuân giữ giới răn Chúa, nhất là giới luật yêu thương. Nhờ đó, qua chúng con mọi người nhận biết, tôn thờ và yêu mến Chúa. Xin Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn chúng con ngọn lửa yêu mến để chúng con can đảm làm chứng cho Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.

ĐỨC GIÊSU, NIỀM VUI HY VỌNG
Ga 14, 15 - 21
Lm Trần Thanh Sơn

Trong những ngày vừa qua, trên thế giới có lẽ không ai được nhắc đến nhiều như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II. Sự ra đi của Đức Thánh Cha đã để lại một niềm thương tiếc vô hạn cho cả thế giới. Không chỉ là các tín hữu Công giáo mà cả các anh em thuộc các Giáo Hội Kitô khác, rồi Phật Giáo, Hồi Giáo và cả những người tự nhận là không có niềm tin tôn giáo cũng đến nghiêng mình kính viếng trước linh cửu của Đức Thánh Cha. Có thể có nhiều lý do và động lực khác nhau, nhưng tựu trung, mọi người đến với Đức Thánh Cha, vì ngưỡng mộ một nhân cách tuyệt vời, và đời sống thánh thiện của Đức Thánh Cha. Giữa một thế giới tục hoá, một thế giới dựa vào sức mạnh của đồng tiền, chỉ tin tưởng vào sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, Đức Thánh Cha đã trở nên một chứng nhân không mệt mỏi cho niềm tin vào Thiên Chúa.

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II đã sống trong niềm tin và ra đi trong niềm hy vọng vào Đấng Phục Sinh. Và không chỉ là Đức Thánh Cha, Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi từng người chúng ta sẵn sàng dùng chính cuộc sống của mình để "trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi chúng ta".

1. Đức Giêsu, nguồn hy vọng:

Niềm hy vọng là một trong những đặc tính quan trọng nhất của con người. Nhờ có niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn mà con người có thể vượt qua những đau khổ, thử thách mà họ gặp trong cuộc sống hiện tại. Do đó, không phải chỉ có ngày hôm nay, nhưng con người thuộc mọi thời đại vẫn luôn thao thức tìm kiếm cho mình một lẽ sống, một mục đích cao đẹp để hướng về đó như một niềm hy vọng cho cuộc đời mình. Tuỳ theo quan niệm sống, mỗi người có thể có một niềm hy vọng khác nhau. Đối với một số người niềm hy vọng của họ có thể là sự giàu có, danh vọng, chức quyền, hay một sự hưởng thụ vật chất nào đó.

Tuy nhiên, đối với các Kitô hữu thời sơ khai, thì Đức Kitô Phục Sinh chính là niềm hy vọng duy nhất của họ. Cho dù giờ đây, Đức Giêsu không còn hiện diện cách hữu hình bên cạnh họ, nhưng họ vẫn tin vào lời hứa của Ngài: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con". Và hơn nữa, chính Đức Giêsu còn hứa: "Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi". Và quả thật, nhờ Thánh Thần, Đức Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện, để nâng đỡ niềm hy vọng của Giáo Hội trong hơn 2000 năm qua. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Phù Trợ mới, được Chúa Cha sai đến để nâng đỡ niềm hy vọng của chúng ta hôm nay.

Chính Chúa Thánh Thần đã ban ơn giúp các tín hữu thuở ban đầu đứng vững trước mọi cơn thử thách, bách hại. Ngài ban sức mạnh giúp họ mạnh dạn rao giảng về Đức Kitô ngay khi đang phải trốn chạy cơn bách hại. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: "Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành xứ Samaria, rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến lời Philipphê rao giảng... Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại, què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả". Phó tế Philipphê cũng như Giáo Hội thời sơ khai hoàn toàn xác tín vào sức mạnh của Đức Giêsu Phục sinh, nhân danh Ngài, phó tế Philipphê đã trục xuất nhiều quỷ ô uế, đem lại cho dân "niềm vui mừng khôn tả", một niềm vui trong hy vọng nhờ cuộc sống trong sạch, tinh tuyền.

2. Lời mời gọi làm chứng về niềm hy vọng:

Không chỉ là Giáo Hội thời sơ khai, thánh Phêrô trong bài đọc hai cũng đang mời gọi toàn thể Giáo Hội, cụ thể là từng người chúng ta hôm nay: "Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em" trong thế giới hôm nay. Được mời gọi "trả lẽ về niềm hy vọng", cũng có nghĩa là mỗi người chúng ta đang được mời gọi trả lời cho mọi người về chính niềm tin của chúng ta.

Có lẽ trước khi trả lời cho mọi người, chúng ta cần tự trả lời trước cho chính bản thân mình. Chúng ta đang tin vào ai? Tin cái gì? Tại sao chúng ta tin? Và đức tin đó đem lại cho chúng ta lợi ích gì? Chỉ khi nào chúng ta xác tín được điều chúng ta tin, thì khi đó, chúng ta mới có thể mạnh dạn làm chứng cho mọi người về đức tin của chúng ta. Hay nói cách khác, chỉ khi chúng ta sống trọn vẹn niềm tin của mình, thì chúng ta mới có thể làm chứng cho mọi người về niềm hy vọng của chúng ta.

Câu trả lời của chúng ta không phải là các cuộc tranh luận xem ai đúng, ai sai. Nhưng chúng ta cần dùng chính cuộc sống của chúng ta để trả lời, thánh Phêrô lưu ý chúng ta: "Phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo dức của anh em trong Đức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em". Chúng ta cần sống những điều mà chúng ta tuyên xưng khi chúng ta tham dự phụng vụ nơi nhà thờ này. Nếu như trong phụng vụ, tất cả chúng ta cùng hiệp lễ, nghĩa là lãnh nhận cùng một tấm bánh bẻ ra, thì khi trở về nhà, chúng ta cũng phải sống hiệp nhất nên một với nhau như vậy. Đời sống hiệp nhất đòi mỗi người chúng ta loại bỏ khỏi cuộc sống mình thói quen nói hành, nói xấu, đặt điều, dèm pha tha nhân.

Mặt khác, tình yêu mà chúng ta nhận được từ Đấng Phục Sinh nơi bí tích Thánh Thể còn đòi chúng ta nhìn ra sự hiện diện của Chúa ở nơi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta, để đến lượt mình, chúng ta cũng có thể yêu mến anh chị em mình, như Chúa đã yêu thương chúng ta. Trước đây, khi Tin mừng mới được loan báo trên đất nước Việt Nam thân yêu này, thì cha ông chúng ta đã dùng chính cuộc sống yêu thương, tha thứ của mình để trả lời cho mọi người về niềm tin của các ngài. Mọi người lúc đó đã nhìn vào cuộc sống của cha ông chúng ta để gọi tên đạo chúng ta là "Đạo yêu nhau". Ngày hôm nay, nếu nhìn vào cuộc sống hàng ngày của tôi và quý OBACE, người ta sẽ gọi tên đạo của chúng ta là gì? "Đạo giận nhau? Đạo ghét nhau? Đạo đánh nhau? Hay Đạo nói xấu nhau?...". Và nếu là như vậy, thì chúng ta chưa thực sự "sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do về niềm hy vọng" của chúng ta. Chắc chắn sống yêu thương tha thứ cho anh chị em không phải là chuyện dễ, nhưng đó lại là cách tốt nhất để chúng ta "trả lẽ cho mọi người về niềm hy vọng của chúng ta".

Đồng thời, khi quên mình để sống yêu thương, tha thứ như thế, đó cũng là cơ hội để chúng ta được thông phần vào thập giá của Đức Kitô, Đấng đã hiến mạng sống vì yêu thương chúng ta như lời thánh Phêrô: "Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa".

Hơn nữa, việc chúng ta sống đúng theo lời dạy của Đức Kitô còn là dấu chỉ mức độ chúng ta yêu mến Ngài, đồng thời, đó cũng là cơ hội để chúng ta chứng tỏ cho mọi người biết rằng: Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, như lời khẳng định của Đức Kitô trong bài Tin mừng: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". Amen.

YÊU MẾN CHÚA
Ga 14,  15 - 21
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa : "Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy", "Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy". Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.

Các điều răn Chúa nói là gì ? và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa ? Hiểu theo nghĩa chặt, đó là bản Giao Ước được ghi vào bia đá. Bản Giao Ước đó chính là Mười Điều Răn, mà dân Do Thái gọi là "Những lời của Giao Ước" hoặc "Mười Lời". Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều : nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp : điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến : mến Chúa yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.

Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.

Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng : có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm lấy áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần : "Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt". Anh bán thịt quát lên : "Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi". Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan toà truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói : "Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé".

Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẫn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn : "Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho". Anh chồng quát lên : "Cho cái gì ? không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau".

Tình thương không chia sẻ, không liên đời là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời : "Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho", hay "Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ". Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.

Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để tỏ lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng : chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.

TÌNH YÊU VÀ GIỚI LUẬT
Ga 14,15-21
Lm. Nguyễn Hữu Lượng
Thiên Chúa thường nói với con người trong cách thế họ có thể lãnh hội được. Thời gian là yếu tố thật cần thiết để Chúa Kitô huấn luyện các Tông đồ của Ngài. Trường huấn luyện của Chúa lại ở ngay trên bước truyền giáo, nên Chúa thường chờ đợi lúc thuận tiện để huấn luyện môn đệ, cơ hội thuận tiện sẽ giúp các Tông đồ dễ lãnh nhận hội giáo lý của Chúa hơn. Và một khi giáo lý đó đã thấm sâu vào tâm trí họ, thì họ sẽ dễ thực hành việc rao truyền cho người khác.

Khi Chúa dạy các Tông đồ: "Ai có các lệnh truyền của Ta và giữ lấy, người ấy mới là kẻ yêu mến Ta, mà ai yêu mến Ta thì được Cha Ta yêu mến, và Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ mình ra cho nó", Chúa muốn các Tông đồ hiểu mối tương quan giữa Ngài và môn đệ như mối thân tình giữa cha và con, thày và trò. Ngài không chấp nhận một lòng yêu mến hời hợi, căn cứ vào một vài hình thức, lễ nghi, giống như người học trò yêu mến thày, nhớ đến thày ngày giỗ, Tết, vài cánh thư, một vài món quà tặng nhau ngày kỷ niệm. Sự quan trọng của lòng yêu mến mà Chúa muốn thấy ở nơi môn đệ của Ngài: "Ai yêu mến Ta, sẽ giữ lời Ta."Sống lời Chúa, làm theo lời Chúa chỉ dẫn để nên giống Chúa, đó mới là lý tưởng của người công giáo.

Người thày chân chính bao giờ cũng muốn truyền thông cho học trò cái tinh túy nhất của giáo lý của mình. Và còn hơn nữa họ mong chờ môn đệ ngoan ngoãn là người trọn đời cố gắng sức thực hành giáo huấn của thày.

Chúa đã đến trong trần gian, đem giáo lý từ trời xuống cho con người. Để thực hiện giấc mơ truyền bá giáo lý nhiệm mầu của mình, Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta mỗi người một sứ mệnh phải chu toàn, để người đời có thể nhìn thấy giáo lý của Chúa được thực hành trong đời sống của chúng ta mà nhận ra chính Thiên Chúa thượng trí là nguồn phát sinh giáo lý đó. Đây chính là giấc mơ Chúa ôm ấp kỳ vọng ở mỗi môn đệ, ở mỗi người tín hữu theo Chúa.

Càng sống Lời Chúa, chúng ta càng khám phá ra nét mặt dịu hiền của Chúa, tình thương, sự quan phòng và định mệnh mà Chúa an bài cho chúng ta. Nắm giữ giáo lý của Chúa tức là nắm giữ một tâm hồn bình an đích thực Chúa muốn để lại cho chúng ta qua Phúc âm hôm nay. Vì thế, sống lời Chúa là sống sự bình an của Chúa.

Chúa săn sóc và âu yếm những kẻ tin vào Ngài. Nhưng Ngài còn yêu thương những ai trọn đời chăm chuyên tuân giữ giới luật của Ngài.

NGÔI LỜI TỎ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Ga 14, 15 - 21
Pm. Cao Huy Hoàng
Chung quanh chúng ta và ngay trong chúng ta, còn có rất nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhưng họ tin có Tình Yêu. Họ cũng đang yêu, đang khát khao được yêu. Họ đang sống nhờ tình yêu vợ chồng, cha mẹ, anh em, bạn hữu, và cả tình yêu tha nhân cộng đồng. Họ không thể thiếu tình yêu, nhưng họ chưa nhận ra Thiên Chúa vì họ vẫn cho rằng tình yêu trong mỗi con người là một khả năng tự nhiên, một nhu cầu tự nhiên. Họ không hiểu được cội nguồn siêu nhiên của tình yêu là Thiên Chúa, và có thể, họ đã thể hiện cách yêu tự nhiên ở một cấp độ dưới bản tính con người.

Kitô hữu công giáo được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diemx phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi.

Bài tin mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Giáo Hội đưa vào tin mừng phụng vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của tình yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Nội dung bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi"(Ga 14,15-16). Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại trong thế gian, và trong mỗi tâm hồn; sẽ làm cho Lời Chúa Kitô trở nên nguồn sống dồi dào và sống động cho giáo hội và cách riêng cho mỗi tâm hồn sẵn sàng đón nhận Ngài như Đấng Bảo Trợ cho ơn cứu rỗi của mình; sẽ làm cho chúng ta khi đón nhận Ngài, trở nên can đảm sống Lời Chúa Kitô và hiên ngang làm chứng cho Thiên Chúa. Vì "Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em"(Ga 14,17). Ôi! Còn hạnh phúc nào bằng khi được sống trong tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu như Chúa Giêsu yêu, dưới ánh sáng của Thánh Thần, để dìm mình trong tình yêu Thiên Chúa Cha. Còn hạnh phúc nào bằng khi tình yêu của Chúa Giêsu vẫn luôn liên tục, không gián đoạn, mà còn dồi dào hơn và kéo dài cho đến ngày Người lại đến: "Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy"(Ga 14,20-21).

Tình yêu của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa thật tha thiết và Ngài tỏ bày tình yêu ấy cách trọn vẹn chu đáo cho các tông đồ, cùng là cho mỗi chúng ta hôm nay. Mỗi người được mời gọi tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua việc Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người.

Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận thần khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.

Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người là yêu như Người đã yêu: Yêu thương người khác để người khác được sống và được sống lại

Nếu tình yêu của chúng ta là động lực để người khác sống được chỉ ở đời nầy mà thôi, thì ấy chưa phải là tình yêu của Chúa Giêsu. Việc bác ái đối với tha nhân nếu chỉ dừng lại ở việc xây cái nhà tình nghĩa, giúp đồng vốn vượt khó, giúp xóa nợ lâu năm... thì có thể nói, cũng chưa phải là việc bác ái Kitô giáo đúng nghĩa. Tình yêu Chúa Giêsu đòi hỏi vượt xa hơn thế nữa: yêu người để người được sống và được phục sinh. Vì thế, làm cho người khác có một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thánh thiện, cuộc sống phục sinh ngay ở đời nầy là tiêu chuẩn của tình yêu và việc bác ái mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện. Rất tiếc, ở những đất nước đang sống trong một nền giáo dục không Thiên Chúa, con người cũng có tình yêu, tình yêu cũng được giáo dục, nhưng là loại tình yêu tự nhiên dừng lại ở những gì cho nhau ở đời nầy, và hầu như không màng đến cái chung cuộc ở đời sau. Thế hệ trẻ được giáo dục yêu nhau như người lớn đã yêu, và đã chết, không cần biết đi về đâu, miễn là đã yêu và đã sống trong cuộc đời nầy thoải mái. Tình yêu ấy, cách yêu ấy không phải là cách yêu của Chúa Giêsu, vì không bắt nguồn từ Thiên Chúa và càng không thể nào dẫn đến sự tan hòa trong cội nguồn tình yêu là ba ngôi Thiên Chúa để tình yêu ấy sống, và sống mãi muôn đời.

Để gia đình được sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, vợ chồng không chỉ yêu thương tôn trọng chung thủy và lo lắng cho nhau sống hạnh phúc đời nầy; cha mẹ không chỉ hy sinh lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái chữ...mà còn lo cả nhà sum họp trên nước trời, về với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Yêu như Chúa Giêsu là làm cho người khác sống và sống lại. Giữa xã hội tôn thờ vật chất ngày nay, đây là một thách thức không nhỏ. Giữa nền giáo dục loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng trí con người, đây là một thách thức không nhỏ. Nhận định của ban giáo lý GP. Qui nhơn: "Không còn trường Công Giáo. Xuất thân từ trường nhà nước, các bạn trẻ từ 40 tuổi trở xuống đã được trang bị những cái nhìn về Thiên Chúa, về con người, về vũ trụ, về lịch sử, về xã hội và về cuộc sống rất khác với cái nhìn Kitô giáo" làm cho những người làm cha mẹ phải nghĩ đến vế thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu "yêu làm cho người khác phục sinh". Người khác ấy chính là người bạn đời, con cái mình, trước tiên. Không chỉ người trẻ, mà có cả người lớn, cũng cần nhìn lại thực trạng đau lòng nầy: người ta cũng đang yêu, nhưng là tình yêu đưa nhau vào hố thẳm của tội lỗi, của sự chết ngàn thu; nhưng là tình yêu vun quén cho chính mình, cho tập đoàn mình, cho những người đồng tình, đồng phe, đồng đảng với mình những mối lợi mối mọt có thể gặm nhấm, những kho tàng không có sức phục sinh; nhưng là tình yêu thỏa mãn những thú tính.... Tình yêu phải là hoa quả của việc kết hiệp bản thân với Thiên Chúa, tiến đến việc giúp nhau nên thánh thiện nhờ việc tuân giữ toàn bộ Lời Chúa Giêsu trong tin mừng, để được chiếm hữu tình yêu ba ngôi Thiên Chúa, để được sum họp với nhau một nhà ở đời sau, ấy mới là tình yêu của một nền giáo dục Kitô Giáo, tình yêu mà Chúa Giêsu tha thiết dặn dò trên trang Tin Mừng hôm nay.

Trở lại với trào lưu có tình yêu mà không tin có Thiên Chúa, và qua những suy tư trên đây, chúng ta có thể thấy được một âm mưu của thế lực chống lại Thiên Chúa dùng chính tình yêu làm nhản hiệu cho một công cuộc thoái hóa, hoặc chống lại tình yêu đích thực. Sự rạn nứt nội tại nơi tâm hồn các tín hữu bắt nguồn từ tình yêu dành cho thế gian, vật chất nhiều hơn dành cho Thiên Chúa và dần dần lề luật của Thiên Chúa, lời dạy của Tin Mừng, bóng dáng của Thiên Chúa cũng mờ dần trong tâm trí họ-mờ dần rồi biến mất lúc nào không hay biết.

Vì thế, việc chân thành khao khát sống kết hiệp với Chúa Giêsu, giữ Lời Chúa dạy trong Tin Mừng làm mực thước, rước lấy Thánh Thể Chúa làm sức sống thiêng liêng mới là bảo đảm cho phần rỗi chúng ta và bảo đảm cho việc thực hiện các điều răn Chúa dạy, nhất là đức ái. Nói một cách khác, trước khi yêu người như Chúa muốn, hẳn chúng ta phải yêu Chúa để sống và yêu được như Chúa yêu, thì tình yêu cho đi, thì việc thực hiện các điều răn của Chúa mới thực mang lại cho chúng ta một giá trị cao cả: sống trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu mến Chúa Giêsu để nên thánh: chiếm hữu được Thiên Chúa. Tuân giữ điều răn Chúa: giúp cho người khác nên thánh, giúp cho người khác chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu không, hãy coi chừng tình yêu và việc bác ái của ta lại rơi vào kế hoạch của những giả dối, dẫn đến cái vô ích cho mình và cho tha nhân.

Lạy Chúa, chúng con thật diễm phúc được Chúa Giêsu dạy cho chúng con cách sống yêu, để cuộc đời chúng con nên một chuỗi ngày hạnh phúc vì khi sống yêu, là chúng con sống trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa chí ái. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người dạy để Lời Mạc Khải, Lời Tỏ Tình Thiên Chúa của Người không trở nên uổng phí cho phần rỗi chúng con. A men.

SỰ SỐNG MỚI
Ga 14, 15 - 21
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốcThiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay :"Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người". Cũng như kiến thức y khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc của nhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loài cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là : Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như như lời Chúa Giêsu nói : " Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến".

Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiện của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta Ở trong người nào tức là ở trong trái tim của người ấy. Ở trong trái tim của ai tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở : mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Chúa Giêsu nói :"Thầy sẽ không để anh em mồ côi". Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ra đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người đem đến cho ta Chúa Thánh Thần an ủi. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sống sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn : "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy". Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó chính là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

SỨC MẠNH CỦA ĐỨC TIN
Ga 14, 15 - 21
Lm Giuse Dương Hữu Tình

Trong Thánh lễ Rửa chân tối thứ Năm tuần thánh, chúng ta đaơ được suy ngắm cử chỉ và nhương lời dạy vô cùng thân thương của Chúa. Bởi đó là cử chỉ và những lời dạy cuối cùng trước khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn. Tuy nhiên, cử chỉ và những lời vàng ngọc đó không thể kín múc hết được ý nghĩa và bài học quý giá trong một thời gian ngắn, Giáo hội khôn ngoan đạo dành trọn 3 Chúa nhật: V, VI và VII phục sinh để giúp chúng ta có thời gian suy ngắm kỹ hơn những lời dạy này. Đó là lý do Chúa nhật V và VI, chúng ta được suy ngắm gần như trọn chương 14 Phúc âm theo Thánh Gioan và Chúa nhật tới (VII), chúng ta sẽ suy ngắm phần đầu của chương 17.

Trong chương 14, chúng ta có thể dễ nhận ra lời dạy của Chúa gồm hai phần: phần dạy về đức tin (chúng ta đã suy ngắm tuần trước) và phần dạy về đức mến (chúng ta suy ngắm trong tuần này). Tin và Yêu là đề tài chính trong lời dạy của Chúa ở chương 14 Phúc âm thánh Gioan.

Với đức tin, Chúa giúp các Tông đồ và cả chúng ta vượt qua lãnh vực trần thế để bước vào một thế giới khác, thế giới thần linh. Với đức tin, chúng ta có thể vượt qua cuộc sống hữu hạn để bước vào cuộc sống vô hạn. Với đức tin, con người khám phá ra ơn gọi đích thực của ḿnh, đó là ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa, là ơn gọi được sống và sống viên mãn.

Đức tin giúp con người ta thoát khỏi sự tù túng nghèo nàn của thế giới trần thế này bao nhiêu, thì đức mến lại giúp con người tiến sâu hơn vào thế giới thần linh bấy nhiêu. Tin là ngưỡng cửa, mến là cuộc sống. Trong suốt các Chúa nhật: Chúa nhật Phục sinh, Chúa nhật II và III Phục sinh, Giáo hội liên tục cho chúng ta sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai về sự hiện diện của Chúa phục sinh đang đồng hành với ḿnh. Giáo hội muốn làm sống lại niềm tin nền tảng ấy nơi mỗi người chúng ta. Nhưng không chỉ sống lại một niềm tin, Giáo hội còn muốn moăi người chúng ta đồng hành bên Chúa, sống với Chúa, để con tim của đập cùng nḥip với con tim của Người. Bởi thế, theo Đạo đâu phải là theo một mớ lý thuyết trừu tượng hay một hệ thống lý luận tôn giáo, nhưng là theo và sống với một Người, là gắn bó mật thiết với một Người. Đó chính là Đức Giêsu Kitô.

HÃY TRỞ THÀNH "NGƯỜI BẢO VỆ - PARACLETE" CHO THA NHÂN
Ga 14, 15 - 21
Lm Raniero Cantalamessa, OFM

ROMA (Zenith.org) - Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dùng từ "Đáng Bảo Vệ" để nói với các môn đệ về Đức Chúa Thánh Thần.

Trong một số văn cảnh từ này có nghĩa là "Đấng An Ủi," trong văn cảnh khác nó lại có nghĩa là "Đấng Bảo Vệ," và đôi khi có cả hai nghĩa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa là Đấng An Ủi cao cả cho Dân Chúa. "Thiên Chúa Đấng An Ủi" này (Rom 15:4), đã "nhập thể" trong Đức Chúa Giêsu Kitô, là Đấng có tên là Đấng An Ủi hay Đấng Bảo Vệ thứ nhất (x. Ga 14:15).

Đức Chúa Thánh Thần, là Đấng tiếp tục công trình của Đức Kitô và làm cho công trình chung của Thiên Chúa Ba Ngôi được hoàn thành, cho nên cũng được gọi là "Đấng An Ủi": "Đấng An Ủi sẽ ở với các con cho đến muôn đời" như Chúa Giêsu nói.

Sau Phục Sinh, toàn thể Hội Thánh đã có một kinh nghiệm sống động và hùng hồn về Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi, Bảo Vệ, đồng minh, trong những khó khăn nội bộ cũng như từ bên ngoài, trong những cuộc bách hại, trong những thử thách, và trong đời sống thường nhật. Trong sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta đọc: "Hội Thánh lớn mạnh và sống trong sự kính sợ Chúa, được đầy an ủi ("paraclesis") của Chúa Thánh Thần" (TĐCV 9:31).

Giờ đây chúng ta phải từ điều này đưa ra một kết luận cụ thể cho đời sống chúng ta. Chính chúng ta cũng phải trở thành Người Bảo Vệs! Nếu đúng là mỗi Kitô hữu phải trở thành một "Kitô khác", thì người Kitô hữu ấy cũng phải trở thành một "Người Bảo Vệ" khác.

Chúa Thánh Thần không những chỉ an ủi chúng ta, mà Ngài còn làm cho chúng ta có thể an ủi người khác khi đến lượt chúng ta. Niềm an ủi thật đến từ Thiên Chúa là "Cha của mọi an ủi." An ủi này đến với những người đau khổ, nhưng không ngừng lại ở họ; cùng đích của an ủi này được đạt đến khi những người đã cảm nghiệm được nó cũng ra đi an ủi người khác bằng cùng một niềm an ủi mà Thiên Chúa đã dùng để an ủi họ.

Họ không được tự mãn vì chỉ dùng lời nói xuông mà an ủi người khác ("Can đảm lên, đừng lo sợ -- rồi bạn sẽ thấy mọi sự trở lại bình thường!"), nhưng phải mang đến cho họ niềm an ủi thật sự "niềm an ủi đến từ Thánh Kinh" là niềm an ủi "nuôi sống niềm hy vọng của họ" (x. Rom 15:4). Đó là cách chúng ta giải thích những phép lạ mà một lời nói hay một cử chỉ đơn thành đem lại, tạo ra một bầu khí cầu nguyện, bên giường một người bệnh. Đó chính là Thiên Chúa an ủi người ấy qua bạn.

Theo một nghĩa nào đó, Chúa Thánh Thần cần chúng ta để trở thành Người Bảo Vệ. Ngài muốn an ủi, bảo vệ, khuyên bảo; nhưng Ngài không có miệng, tay và mắt để cho sự an ủi của Ngài "một thân xác." Nói đúng hơn, Ngài có tay, có mắt và miệng chúng ta.

Nếu theo sát nghĩa văn tự của điều Thánh Phaolô bảo tín hữu thành Thessalônica - "anh em hãy an ủi nhau" (1 Thes 5:11) - thì chúng ta phải hiểu rằng Ngài nói: "Anh em hãy trở nên Người Bảo Vệs cho nhau. Nếu chúng ta muốn ích kỷ khư khư giữ lại cho mình niềm an ủi mà chúng ta nhận được từ Chúa Thánh Thần mà không chuyền cho người khác, thì niềm an ủi này sẽ tan biến đi." Đó là lý do tại sao một kinh nguyện tuyệt mỹ được gán cho Thánh Phanxicô, viết rằng: "Xin cho con tìm an ủi người hơn được người ủi an; tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến người hơn được người mến yêu."

Dựa theo những gì tôi vừa nói, thật không khó gì để thấy ai là Người Bảo Vệs chung quanh chúng ta hôm nay. Họ là những người đang chăm sóc cho những người đau nặng, cho những người bị bệnh AIDS. Họ là những người tìm cách làm giảm bớt sự cô đơn của người già, những người thiện nguyện bỏ giờ ra thăm viếng các nhà thương. Họ là những người đang tận tâm phục vụ các trẻ em nạn nhân đủ loại lạm dụng, cả trong lẫn ngoài gia đình các em.

Chúng ta hãy kết luận bài suy niệm này bằng những câu đầu tiên của Ca Tiếp Liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, kêu cầu Chúa Thánh Thần như "Đấng An Ủi Tuyệt Vời":

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,
và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!
Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;
Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!
Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,
là khách trọ hiền lương của tâm hồn,
là Đấng uỷ lạo dịu dàng.
Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,
là niềm an ủi trong lúc lệ rơi.


Chú giải Tin Mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh của Cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap, chuyển ngữ: Phaolô Phạm Xuân Khôi

YÊU MẾN CHÚA
Ga 14, 15-21
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Có một nghịch lý rất chặt chẽ và hợp lý: " yêu mến Chúa là giữ điều răn của Chúa ", ngược lại " giữ các điều răn của Chúa là yêu mến Chúa ". Bài Tin mừng Chúa nhật VI Phục sinh, năm A, thánh Gioan cho chúng ta biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc giữ các giới răn, những điều luật của Chúa. Do đó, không ai có thể nói mình yêu mến Chúa mà lại không tuân giữ các giới răn, các điều luật của Chúa. Và đã giữ những Lời Chúa dạy, thì người ấy đồng thời cũng yêu mến Chúa.

Xét cho cùng giữ giới răn của Chúa là tuân giữ mười điều luật của Giao Ước. Đây là chính giới răn Thiên Chúa đã khắc ghi vào bia đá và trao cho Môsê để Ông Môsê truyền cho dân tuân giữ. Đạo Công Giáo từ Cựu Ước cho tới thời Tân Ước luôn dạy con người phải tuân giữ mười điều răn của Chúa và những Lời Thiên Chúa dạy bảo. Ngày nay, Đạo Công Giáo nói tới Phúc âm, Tin mừng, nói tới mười giới luật, sáu luật Hội Thánh buộc, Tám Mối Phúc, Giáo luật vv...Đứng trước rất nhiều điều như thế, nhiều khi người Kitô hữu không hiểu đâu là điều chính đâu là điều phụ thuộc, những thắc mắc, phân vân ấy Chúa Giêsu đã giải đáp từ xưa: " Điều quan trọng, điều chính yếu là lòng yêu mến, mến Thiên Chúa và yêu tha nhân ". Yêu người sẽ gặp Chúa và tôn kính mến Chúa sẽ gặp người.

Người Kitô hữu thực tế có rất nhiều cách để biểu tỏ lòng yêu mến Chúa. Tuy nhiên, điều cụ thể nhất vẫn là tuân giữ những điều Chúa đã truyền, cách riêng là lòng mến Chúa và yêu người. Quả thực, nếu theo Chúa, người môn đệ không yêu mến anh chị em thì làm sao họ có thể mến Chúa, Đấng mà họ không được thấy nhãn tiền.

Đối diện với một thế giới đang vươn tiến, đang chạy đua về kỹ thuật, đứng trước một số rất đông người chỉ ham mê danh lợi, của cải vật chất và tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm lợi nhuận...người môn đệ Chúa phải có thái độ nào đối với những người xung quanh, đặc biệt những người nghèo khổ ? Người môn đệ Chúa phải sống sự sung mãn của Chúa sống lại: " Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em " ( Ga 4, 20 ) " Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống " ( Ga 14, 19 ). Người Kitô hữu phải cảm nghiệm sâu xa lời thánh Phaolô viết cho tín hữu Galát: " Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức kitô sống trong tôi " ( Gl 2, 20 ). Thánh Gioan đã viết: " Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy " ( Ga 14, 21 ).

Vâng, người Kitô hữu chỉ có thể kéo dài sự sống khi họ sống yêu thương và chia sẻ. Sự sống kéo dài không phải là đời sống tạm bợ ở trần gian mà là sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Trước một thế giới mà nhiều người hầu như đánh mất căn tính con người của mình, người Kitô là người sống sự sống của Chúa, người Kitô hữu sống tình thương chia sẻ, sống bác ái và sống bằng những nghĩa cử tốt đẹp, tỏa sáng. Người Kitô hữu có rất nhiều cách để biểu lộ lòng mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là yêu mến anh chị em, đặc biệt những người khó nghèo, những người thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Chúa dạy nhân loại, Chúa dạy chúng ta hãy mến Chúa, hãy yêu người. Kính Chúa và yêu người là giới răn quan trọng để biểu lộ chúng ta là con Chúa. Chúa đã truyền dạy: " Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con " và " Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau ".

Kính Chúa không chỉ bằng việc thờ phượng Ngài trong nhà thờ, trong thâm tâm mà nó còn phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc yêu mến anh em. Bởi vì, Đạo Công Giáo là Đạo Tình Thương. Đạo Công Giáo không chỉ nói yêu thương bằng môi miệng nhưng còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng những nghĩa cử bác ái yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn sống Đạo Yêu Thương bằng chính cuộc sống yêu thương của chúng con. Amen.

YÊU MẾN CHÚA
Ga 14, 15-21
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Đây vẫn là những lời nhắn nhủ, động viên, khích lệ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ trước khi Chúa về Trời với Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nằm trong bài ' những lời từ biệt ' của Chúa Giêsu với các môn đệ trong đêm mừng lễ Vượt Qua với hai ý tưởng chính :" Hãy tuân giữ lệnh Chúa và Chúa sẽ xin Chúa Cha sai Đấng phù trợ đến ". Tuân giữ những lời Chúa dạy và rồi Chúa Cha sẽ gửi Đấng phù trợ ( Ga 14, 16 ) đến trợ giúp các môn đệ khi Chúa không còn hiện diện hữu hình bên họ nữa.

Mặc dầu Chúa biết các môn đệ yêu mến Chúa thật, nhưng Ngài vẫn nhắc nhở, khuyên bảo các môn đệ :" Yêu mến Ngài thì phải tuân giữ những điều Ngài đã dạy các ông. Bởi vì yêu mến Chúa không chỉ là tình cảm suông, không chỉ là những tâm tình thoáng qua, hời hợt, nhưng phải được thể hiện ra bằng việc làm cụ thể là tuân phục lời Chúa dạy, vâng theo thánh ý Chúa được tỏ ra qua lề luật, giới răn của Ngài, giới răn đó là mến Chúa và yêu người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ sẽ xin Chúa Cha ban cho các Ngài một Đấng phù trợ, Đấng đến để an ủi, trợ giúp, cầu bầu và bảo vệ các môn đệ, các tín hữu của Chúa. Thánh Gioan cũng cho thấy thế gian là thế giới kẻ thù của Thiên Chúa. Thế gian được đồng hóa với Satan, với ma quỷ vv...Chúa Giêsu nói rằng thế gian không còn thấy Ngài vì Ngài đi về với Chúa Cha, còn các môn đệ nhờ đức tin, nhận ra rằng Chúa vẫn sống.Các môn đệ được chia sẻ sự phục sinh của Chúa, nên các Ngài có được sự sống mới. Chúa yêu mến các môn đệ vì các môn đệ yêu mến Chúa, tuân giữ lời Chúa dạy, nên được Chúa Cha yêu mến.

Chúa Giêsu nói :" Ai yêu mến Thày sẽ được Cha Thày yêu mến và Thày cũng yêu mến và tỏ ra cho người ấy biết Thày " ( Ga 14, 21 ).

Thiên Chúa luôn đi bước trước, yêu thương con người trước và khi con người tuân giữ luật Chúa, họ chứng tỏ họ đã đón nhận, muốn triển nở tình yêu, thăng hoa tình yêu nơi bản thân của mình và trân trọng tình yêu ấy, do đó, họ tuân giữ những điều Chúa dạy để tình yêu của Chúa không bị ứ đọng mà tình yêu của Chúa được lan tỏa đến với mọi người. Chúa Giêsu hiểu giá trị của Lời Ngài, Lời ban sự sống, cứu độ và dẫn đưa con người tới hạnh phúc. Tuy nhiên, Lời của Chúa không thể sinh hoa kết quả nếu con người chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói cách suông, ơ hờ, hời hợt, nhưng những điều Chúa nói cần phải đem ra thực hành với lòng yêu mến. Xưa, Chúa đã trấn an các môn đệ :" Đừng xao xuyến, đừng lo âu ". Ngài ra đi về cùng Chúa Cha nhưng ngài sẽ xin Chúa Cha sai Đấng phù trợ đến. Thánh Thần sẽ hiện diện để hướng dẫn, soi đường chỉ lối cho các môn đệ, cho mọi người. Ngày nay, Chúa cũng nhắc nhở chúng ta :" Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì phải tuân giữ giới răn của Chúa ". Tất cả lề luật chỉ tóm gọn trong hai điều :" mến Chúa và yêu tha nhân " ( Mt 22, 40 ). Đây là điều chính yếu. Bởi vì đó là chân lý. Chúa đã xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để gìn giữ Giáo Hội đi trong sự thật. Chỉ khi nào chúng ta tuân giữ giới răn Chúa, thực hành những điều Ngài dạy với lòng yêu mến.Chúng ta mới được hưởng dồi dào ân sủng, bình an và sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc sống trần thế này.

Jean-Pierre Manigne viết :" Tin mừng hôm nay, một cách đơn sơ mà tuyệt vời, nhắc đến Thiên Chúa Ba Ngôi : Cha, Con, Thánh Thần. Ba Ngôi ! trái ngược với một Thiên Chúa phiêu diêu trên mây gió, trái ngược với một ý tưởng, một thứ gì trừu tượng.Mà là vị Thiên Chúa như chúng ta đã cảm nghiệm, Đấng nhận chúng ta làm nghĩa tử, gia nghiệp chúng ta được thừa hưởng.
Phải làm gì để gia nhập gia nghiệp ấy, để thoát khỏi cảnh mồ côi lạc loài trong thế giới lạnh lẽo này ? Phải ao ước được làm nghĩa tử, ao ước hết sức mình.Suốt đời mình ".

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa củng cố đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra rằng Chúa luôn yêu thương chúng con.Chúa luôn hiện diện với chúng con và Chúa đã xin Chúa Cha sai Thánh Thần đến để biến đổi chúng con, làm cho chúng con luôn biết " yêu mến Chúa và yêu mến đồng loại ". Amen.

YÊU MẾN THẦY, THÌ HÃY GIỮ GIỚI RĂN THẦY
Ga 14, 15 - 21
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khi đến « giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha » (Ga 13, 1) . Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. « Tối hôm trước ngày chịu khổ hình ». Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.

Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.

Câu hỏi đặt ra : ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn ? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.

« Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy » (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói : các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là : khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác : nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.

Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy » (Ga 14, 21). Và Người cam kết : « Thầy sẽ xin Cha ». Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là ; nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì ?

Chúa Giêsu xin Cha điều gì ? Người xin Cha « ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác » (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một « Đấng Phù Trợ khác ». Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, « Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự » (Ga 14, 26).

Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý ? Khỏi phải lo, vì « thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài » (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm « còn các con, các con biết Ngài » (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không ? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha : « Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi » (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến : « Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con » (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.

Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói : « Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con ». Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con ; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. « Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con » (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.

Chúa Giêsu kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó» (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con : chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng « Abba, Lạy Cha » .

Nguồn vietcatholic.org

1011    23-05-2014 09:15:21