Sidebar

Thứ Ba
30.04.2024

Chúa Nhật V MC A_3

SUY NGHĨ VỀ CÂU CHUYỆN KẺ CHẾT SỐNG LẠI
Gioan 11 :1-45

Câu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại được đề cập trong ngày hôm nay là một đề tài thú vị, nhưng nghe qua thật là nghịch lý với những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày. Quả thật Đức Giêsu đã chữa lành, đã làm cho ông Lazarô chết trong mồ 4 ngày sống lại. 

Đoạn Tin mừng này có thể nói là để lại cho chúng ta nhiều cảm giác phác tạp khác nhau, phải chăng đó cũng là cảm giác của Mátta khi Chúa Giêsu đề cập đến sự sống lại của Lazarô em của chị. Chúng ta hãy cũng xem đoạn Tin mừng hội thoại này giữa Chúa Giêsu và chị Mátta.

Trước tiên Chúa Giêsu đến với chị em nhà Mátta, thì chị ra đón Người. Chúa Giêsu không nói một lời nào để chia buồn hay an ủi chị về cái chết của một người em thương yêu. Chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ việc Ngài sắp làm còn quan trọng hơn, có nghĩa là hơn về cái chết, hay nỗi buồn của họ.

Mátta : "Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con đã không chết". Qua câu nói này chúng ta thấy rằng Mátta biết rõ Chúa Giêsu rất có khả năng chữa lành tật nguyền cho người ta. Nhưng sự thật em chị đã chết rồi, khiến chị rất đau buồn và tiếc nuối (khi em chị bệnh nặng chị đã sai người đi báo cho Chúa Giêsu nhưng Chúa đã lưu lại chỗ ở 2 ngày, để cho anh Lazarô phải chết). 

Tuy nhiên, sau đó chị Mátta đã thêm vào : "Nhưng bây giờ con biết, nếu thầy xin gì cùng Thiên Chúa thì Ngài đều ban cho". Một câu nói như hẻ mở một niềm hy vọng, hình như chị dám muốn thầy mình làm một điều gì cao cả hơn bình thường là chữa bệnh. Bởi thế Chúa Giêsu đã trả lời chị : "Em của chị sẽ sống lại".

Tưởng chừng như Mátta hiểu được điều Chúa Giêsu nói, tưởng chừng như chị có đủ niềm tin để xin Chúa cho em chị sống lại, tưởng chừng như chị sẽ reo lên vì vui mừng. Nhưng sự thật không phải thế, chị lại chẳng dám tin, chị lại hiểu như những gì chị đã nghe thầy mình giảng dạy, nên thưa : " Con biết em con sẽ sống lại ngày sau hết, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."

Một lời tuyên xưng rất căn bản và rất quan trọng, sau này Giáo hội cũng giác định trong Kinh Tin Kính, nhưng trong trường hợp này lại có tác động ngược lại. Và bởi thế Chúa Giêsu mới lý giải cho chị về chính Ngài (đã đề cập ở Gioan chương 4) :

"Chính Thầy là sự sống lại và lạ sự sống; 
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy
sẽ không phải chết.
Chị có tin không ?"

Sự sống và cái chết mà của Chúa Giêsu đề ở đây là sự sống mai hậu, sự sống mà khi đến ngày tận thế, khi mọi thứ bị hủy giệt thì Thiên Chúa sẽ cho những ai tin vào Người sẽ được cứu rỗi. Kẻ tin và người không tin sẽ có hậu quả như ngày phán xét chung bị phân chia ra hai bên như chiên và dê. Có thể chị Mátta chỉ có hiểu được như thế nên mới đáp lại :

"Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (câu 27) 

Lại một lời xác nhận hay một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nữa được phát ra từ miệng cô Mátta, nhưng về vấn đề Đức Kitô sẽ cho em cô sống lại ngay lúc đó thì quả là một điều mờ mịt đối với cô. Một thông điệp mà Đức Kitô bày tỏ trong câu 25 và 26 là Người sẽ cứu mọi người khỏi sự chết do tội Adam đã gây ra chỉ cần tin vào Người, mà điều này vẫn còn tiềm ẩn đối với Mátta. Bởi thế nói xong lời trên cô "lặn " đi về nhà, "nhường" chỗ cho em gái mình ra tiếp chuyện Thầy Giêsu.

Có lẽ Mátta không nghĩ rằng Thầy Giêsu sẽ cho em mình sống lại và chính mắt cô sẽ được trông thấy, thể hiện ở câu 39, khi Chúa Giêsu bảo người ta mở ngôi mộ ra thì cô đã can ngăn : "Nặng mùi rồi, vì đã được bốn ngày". Bởi thế Đức Giêu mới nhắc lại cho cô, đây như là lời tái mặc khải nhưng hình như có chút trách móc :

"Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quan của Thiên Chúa sao ?"(câu 40)

Rồi một phép lạ đã xẩy ra, Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa và sau đó kêu lớn tiếng : "Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ !" Kẻ chết liền đi ra khỏi mồ, ai nấy đều ngạc nhiên và biết bao nhiêu kẻ tin vào Người. 

Mátta, Maria vui sướng dường bao khi đứa em của họ đã chết bốn ngày nay đã sống lại. Ôi, ai dám tin rằng đây là sự thật. Có thể hai cô Mátta và Maria hay cả những người xung quanh đã nghĩ rằng mình đang trong cơn mơ. Vâng, một sự lạ, một dấu chỉ Đức Kitô đã làm để vinh danh Thiên Chúa, một sự lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để thiên hạ thấy được thân phận và trách vụ của Đức Kitô. Một sự lạ mà Chúa Giêsu muốn mọi người biết trước về tương lai của Ngài, về cái chết mà Ngài sẽ đi qua, về sự phục sinh mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ngài. Một dấu lạ mà đồng thời Chúa muốn cho ta thấy, ai tin vào Ngài thì ngày sau hết cũng sẽ được sống lại như vậy : "Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống." (câu 25)

Nhưng đối với chúng ta, đối với nhiều người Kitô hữu có lúc đây là một điều thần kỳ, nhiều lúc chẳng dám tin và hơn thế nữa còn nhiều câu hỏi chất vần làm sao điều đó có thể xảy ra. Vì Tín Điều Kẻ Chết Sống Lại, trong đó có chúng ta làm sao để hiểu được, đôi khi chúng ta còn cầu xin Chúa cho mình một dấu chỉ hay một cảm nghiệm để cho niềm tin của chúng ta được rõ ràng hơn, được một cái gì đó gọi là "có thể nắm được", lòng trí của chúng ta có thể lý giải được, diễn tả được.

Đây là vấn đề thách đố cho không ít người, khi thuyết sống lại của Chúa Giêsu nghịch với khoa học. Nhưng ngược lại, cũng chúng ta nhiều lúc cũng cầu xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta cũng được sống lại mai sau. Chẳng có gì xấu hay nguy cơ gì khi chúng ta dám cầu xin Chúa điều đó, dấu lạ đó. Nhưng nên nhớ rằng trước khi làm phép lạ cho anh Lazarô sống lại thì Chúa hỏi cô Mátta là : "Con có TIN không ?" (câu 26), chứ Ngài không hỏi là con có HIỂU không ? Đức tin nếu muốn dùng ngôn từ để lý giải cho minh bạch thì chắc là chẳng được gọi là tin nữa. Dĩ nhiên để hiểu được điều chúng ta tin thì nhìn vào cuộc sống của chúng ta xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta, xem Đức Kitô đã dạy gì cho chúng ta, và xem Thánh Thần đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta thế nào, như thế có thể bảo đảm được phần nào. 

Đối với kẻ chết sống lại, Giáo hội cũng đã khẳng định như thế trong Kinh Tin Kính, an tâm mà tin tưởng, còn bao giờ chúng ta nắm bắt được thì chờ một ngày nào đó mà Thiên Chúa cho phép chúng ta, lúc đó mọi người sẽ vui mừng mà thốt lên : "Ôi! Tuyệt vời quá !"

Phạm Yên Thịnh, SVD

CHỨNG NHÂN CỦA TIN MỪNG SỐNG LẠI
Ga 11, 1 - 45

1. Tin vào sự sống :

Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn :

Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra : Tại sao như thế ? Con người là "Nhân ư linh vạn vật" kia mà ? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế ? Như những câu thơ oán thán "Trời già" của một người cha mất đứa con yêu :

"Ái ăn đâu, Ái ở đâu ?
Để thương để nhớ để u sầu.
Trời già độc địa làm chi bấy ?
Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu ! 

Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu : "Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết !". 

Phần chúng ta, vấn nạn "nhân sinh quan" nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa "Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết" (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay "hái trái cấm"...và thế là "sự chết đã lan tràn tới mọi người" (Rm 5,12) : Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora...Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một "nền văn minh sự chết" : khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh...

Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là "Chúa của kẻ chết" mà là "Chúa của người sống".

Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái "vũng lầy nhầy nhụa" đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)...dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như "tiếng kèn hy vọng" qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en : "Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt...Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh..." (BĐ 1). 

Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì "tin vui hy vọng" của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là : niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng : chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton : "Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao".

Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà "Lời luôn đi kèm hành động". Biến cố "cải tử hoàn sinh" cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay "quê hương của tử thần", ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty : "Hỡi La-da-rô hãy bước ra", "Ta là sự sống lại và là sự sống" (TM). 

Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là :Tin vào sự sống.

Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng ? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn...vẫn là một "kỳ công vĩ đại của Thượng Đế" luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó.

Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền "văn minh sự sống", "văn minh tình yêu", cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta.

Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường "vượt qua" đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào "miền đất của tái sinh", hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc.

Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết :

2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết :

Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem : những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những "nụ cười" chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có "trái tim trắc ẩn" của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim ? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột ? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu ? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng ?

Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng : Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời. 

Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo...mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá...Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên "phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng" ! Chúng ta đừng quên câu chuyện "Ngày Thứ Năm Tuần Thánh" : khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì "bóng tối dâng lên"...và "bóng tối quái ác" đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng : "Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi". Và lập tức anh ta được đáp ứng : "Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi". Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết : "Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ". 

Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm "chết đi cho cái tôi đáng ghét" của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng...để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng. 

Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như "điệp khúc của mùa Chay", mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn "Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô : "Con có tin như thế không ?" không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta : "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian", nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống : con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá.

Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho "Thần Khí chi phối". Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay "sát thủ" tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại. 

Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen.

LM. Giuse Trương Đình Hiền

CHẾT ĐỂ ĐƯỢC SỐNG
Ga 11, 1 - 45

Người ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh Thánh. Chính Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi của tôi : "Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai bị quăng vào lửa, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin"(Mt 6,30). 

Thế là đã rõ, chính Thiên Chúa đã tạo nên, ban tặng vẻ đẹp và sự kiều diễm cho hoa đến nỗi bậc đế vương sang trọng như Salômôn cũng không sánh bằng. Nhưng tôi lại thắc mắc : Hoa đẹp vậy mà tại sao lại chóng tàn thế ? Tại sao chỉ một cơn gió mạnh cũng làm nó biến đi, chỗ nó mọc không còn vết tích? 

Tôi lại tìm được câu trả lời ngay trong đoạn Kinh Thánh vừa được trích : Chúa muốn qua loài hoa để dạy tôi về sự quan phòng của Ngài và muốn tôi hãy phó thác cho tình yêu thương của Cha trên trời. Ngài còn nhắc tôi nhớ lại câu ca dao đồng nội tương đương với Thánh Vịnh 90 nói về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp nhân thế: 
"
Đời người khác thể bông hoa
Sáng ngày hé nở chiều ra đã tàn
"

Tương đương 
"
Như cỏ đồng trổ mọc ban mai
Nở hoa vươn mạnh sớm ngày
Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn
... " (Tv. 90, 5-6)

Đúng vậy, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi : 
Ấy con người khác chi hơi thở,
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.


Nhưng chẳng lẽ Chúa gửi cho đời những bông hoa đẹp như vậy mà lại chỉ thông báo những điều tiêu cực và chỉ để:
Ngồi lại bên đời thương dĩ vẵng 
Nghe trong lòng câu "hoa sớm nở tối tàn"


Theo tôi Chúa muốn gửi đến cho mọi người thông điệp khác nữa: 
Hoa đến báo hiệu mùa Xuân tới,
Mùa hy vọng, mùa sự sống vũ hoàn


Sứ điệp loài hoa không chỉ nhắc cho con người về sự mỏng giòn chóng qua mau hết nhưng còn khơi lên niềm hy vọng : Chết không phải là hết mà là : 
Thu qua Đông tới Xuân về
Cúc tàn Sen nở trên quê vĩnh hằng
.

Anh em Phật giáo quan niệm : Nếu sống tốt, sống lành, sống thiện thì khi Thu qua Cúc tàn sẽ được hưởng mùa Xuân Vĩnh Hằng trên tòa sen. Còn nếu sống ngược lại thì sẽ bị hóa thân làm kiếp khác thấp hơn, xấu hơn. Đó chính là niềm tin có sự sống đời sau được diễn tả qua thuyết luân hồi.

Còn người Kytô chúng ta không chỉ nhận ra những dấu chỉ, những mạc khải của Chúa về sự sống sau cái chết qua thiên nhiên, qua khát vọng sống vĩnh cửu của con người, mà còn được chính Thiên Chúa cho biết về điều đó. 

Từ rất xa xưa, qua ngôn sứ Ezékiel Chúa đã thông báo cho Dân Ngài và cũng là cho toàn thể nhân loại một tin mừng: "Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống." (Ed 37, 13)

Lời hứa đó được thực hiện nơi Con của Ngài, và phép lạ "kéo Lazaro ra khỏi mồ" hôm nay là một dấu chỉ, một điều báo trước cho phép lạ vĩ đại nhất, kỳ công lớn lao nhất mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần của Ngài, sắp thực hiện nơi Đức Giêsu Kytô, và chính đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của chúng ta : "Và nếu thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kytô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kytô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần của Người ngự trong anh em" (Rm 8, 11)

Như vậy muốn ra khỏi mồ thì phải vào trong mồ đã, tức là phải chết đi cho xác thịt, cho tội lỗi và sống trong Thánh Thần.

Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta chết cho tội. Hãy vào trong "ngôi mộ tình thương" của Bí ích Hòa Giải để cảm nghiệm sự khốn cùng của kiếp người và tình thương bao la của Thiên Chúa (Tv 129), để được nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi : "Hỡi Lazaro hãy ra khỏi mộ"! 

Hãy chết cho xác thịt để hoa trái của Thánh Thần nở rộ giũa cuộc đời :
"Hãy chấp nhận làm cõi lòng tan nát, 
như hoa tàn dâng trái ngọt lựng hương"


Chính những trái ngọt lựng hương mang được "làm chín" bởi Thánh Thần và bởi "tấm lòng tan nát dày vò" này sẽ là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích nhất và nhất là đươc sống đời đời với Đấng đã tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống đời đời" (Ga 11, 25). Amen

Lm. Đa Minh Đặng Văn Cầu

NỐI KẾT VỚI CHÚA GIÊSU LÀ NGUỒN BAN SỰ SỐNG
Ga 11, 1 - 45

Sự sống vô cùng quý báu
Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà văn Jack London)

Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già. 
Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào. 
Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được. 

Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn

Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì!

Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: "Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..."

Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người

Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn.

Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được!

Chính vì thế mà khi La-da-rô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù La-da-rô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Mat-ta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức... Ngay cả Chúa Giê-su khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy.

Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống.

Chúa Giê-su đem lại sự sống đời đời cho nhân loại

Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu?

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống".

Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giê-su được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù La-da-rô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giê-su kêu gọi: "La-da-rô, hãy ra đây!" thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng. 

Sự kiện Chúa Giê-su làm cho La-da-rô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ... chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người.

Hãy kết nối với Chúa Giê-su để nhận được sự sống đời đời 
Chúa Giê-su là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giê-su.
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện.
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho.
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể. 
Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giê-su. 

Lạy Chúa Giê-su, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa.
Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con.
Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời. 
Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con.

LM Inhaxiô Trần Ngà

HÃY RA KHỎI SỰ CHẾT
Ga 11, 1 - 45

Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hoà, ngay trước giờ tôi chuẩn bị bài nói chuyện với các em thuộc Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo hôm Đại Hội cuối tháng hai vừa qua. Tiêu đề bài nói chuyện hôm ấy là "Mục Đích Đời Sống". Và mục đích của đời sống công giáo chân chính là gì nếu không phải là sống chết cho nhau, nhất là cho những người đã dày công dưỡng nuôi mình khôn lớn...

Và tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất về lại Sàigòn. Rồi thuê một cuốc xe chạy ngày đêm ra Nha Trang. Vào ngay bệnh viện, ông cụ nhận ra tôi ngay -tuy vẫn còn mê man lắm- và ra hiệu muốn nắm lấy tay tôi. Tay đứa con tha phương quyện trong đôi bàn gầy guộc chai cứng theo ngày tháng của người cha già một đời lam lũ hy sinh vì đức tin và vì lý tưởng. Rồi đôi mắt nhoà đẫm lệ, ông cụ hôn tay tôi -như một nụ hôn giả từ vĩnh biệt...

Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngay từ khi đuợc báo tin. Nhưng sáng hôm sau, vào lại phòng cấp cứu, ông cụ tỉnh hơn đôi chút. Rồi lạ lùng thay, ông cụ thều thào nói chuyện, kể cho tôi nghe là ông cụ đã đi đến một chỗ nào đó cao xa:. "Ba thấy toàn một màu trắng. Rồi thấy rất nhiều bà Sơ. Nhưng chẳng thấy ông cha nào cả!" Tôi phá lên cười: "Con biết tại sao rồi!" 

Ai cũng cừời theo, trừ ông cụ. Và hình như vẫn còn mãi mê về một chỗ cao xa trắng xoá tinh tuyền nào đó, ông cụ ra hiệu cho tôi ghé tai gần: "Ba biết Ba chưa chết!" Tôi liền trấn an, vững tin như Martha về Lagiarô: "Không! Ba không chết đâu!" Phải cấy niềm tin và sức mạnh cho ông cụ, như Chúa Giêsu đã cấy cho Martha hai ngàn năm trước, tôi nhủ lòng mình.

Một điều tôi cảm xúc nhất về câu chuyện Lagiarô, là khi Chúa Giêsu nói cùng Martha: "Ta Là Sự Sống". Sự Sống. Ngay chính giữa cảnh chết chóc khóc lóc tang thương, Chúa đến mang sự sống; ngay giữa lúc khóc than, Chúa mang đến nụ cười. "Ta Là Sự Sống": Ta Là. Không Ta Đã Là hoặc Ta Sẽ Là. Ta Là: Hiện Tại; Bây Giờ. Vì với Chúa không thể có quá khứ và chẳng bao giờ có tương lai. Không thể chết, nếu tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại. Không thể chết, vì chết chỉ là một phần của đời sống trường sinh miên viễn...

Sắp bước vào Tuần Chay Thánh, và một lần nữa, câu chuyện người chết sống lại Lagiarô là một lời cảnh báo vừa nghiêm khắc vừa xúc động: là không thể có sự sống đời sau nếu không trọn vẹn và thành tín sống đời sống đời này. Không thể có tương lai hằng cữu nếu hiện tại chỉ là một con số không rỗng toác! "Ta Là Sự Sống": nếu chúng ta đợi chờ sống đời sống trường sinh chỉ sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì chắc chắn đó là điều vô cùng ảo tưởng...

Là con người như bao con người, Chúa xúc động trước cái chết của Lagiarô: Người rơi lệ. Nhưng Người đã không để cho những bức xúc nhân tính lu mờ đi bản chất thiên tính của mình, như Lời Kinh Tiền Tụng: "Là người thật, Chía Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ." 

Nói một cách khác, giữa những đớn đau mất mát về vật chất xác thịt kia, điều tưởng chừng như phải khóc than đau buồn là khi niềm tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại đã phai nhoà mai một. Chúng ta phải khóc, phải buồn, phải xót thương khi người thân không còn nữa. Nhưng những giọt nuớc mắt và nỗi buồn kia phải quyện trong một niềm tin sắt đá là Sự Sống và Sự Sống Lại đã tiêu diệt sự chết 2000 năm trước đây trên đồi Golgotha cô liêu hoang vắng.

Điều cảm xúc và đáng suy nghĩ khác là khi Chúa Giêsu phán: "Lagiaro! Hãy ra đây!" Đó là một lệnh truyền! Hãy ra khỏi sự chết và hãy bước vào -mạnh dạn bước vào- Sự Sống. 

Và vì thế, khi tâm trí dày đặc những ý tưởng sợ hãi, lo âu, buồn phiền, thất vọng; khi phải diện đối diện với những dục vọng vật chất xác thịt thấp hèn; khi phải vật lộn với những đam mê bất chính, những giả hình hèn kém vong nô, hãy nghe lệnh Chúa phán truyền với chính mình: "Bạn! Hãy ra đây!" 

Và chúng ta phải nghe lệnh truyền ấy. Nghe và bước ra khỏi những hang mộ tối tăm kia, như Lagiarô đã nghe và đã bước ra từ mộ chết đời mình. Hãy đừng chần chừ! Hãy không do dự. Hãy mạnh dạn bước ra vì cuối đuờng hầm, Chúa Giêsu -Sự Sống và Sự Sống Lại- đang giang rộng tay chào đón.

Khi chúng ta khiêm cung nhận biết mình là phận hèn vật mọn, Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta quyền phép đến vô cùng...

Lm. Nguyễn Khoa Toàn

nguồn vietcatholic.org

3767    08-04-2011 07:23:37