Sidebar

Thứ Năm
28.03.2024

Chúa Nhật Phục Sinh 2014

  1. Đền Đáp Ân Tình
  2. Ngài Đã Sống Lại
  3. Ra Khỏi Mồ
  4. Niềm Vui Thay Ðổi Lòng Người
  5. Phục Sinh Niềm Hy Vọng Của Nhân Loại
  6. Vì Yêu
  7. Niềm Tin Vào Sự Phục Sinh
  8. Đức Giêsu Đã Sống Lại Thật Và Các Cuộc Đổi Đời
  9. Ông Đã Thấy Và Đã Tin
  10. Lễ Phục Sinh: Sứ Điệp Niềm Tin
  11. Chúa Đã Sống Lại Rồi: Hãy Đi Loan Báo Tin Mừng
  12. Chúa Kitô Phục Sinh
  13. Niềm Tin Phục Sinh
  14. Hãy Vui Lên
  15. Thấy Và Tin
  16. Chúa Đã Sống Lại
  17. Niềm Tin Vào Chúa Phục Sinh
  18. Chúa Đã Sống Lại Thật
  19. Chúa Kitô Sống Lại, Nền Tảng Của Niềm Tin Kitô Giáo
  20. Chúa Đã Sống Lại Từ Cõi Chết
  21. Chúa Kitô Sống Lại
  22. Tạo Vật Mới Trong Chúa Kitô
  23. Niềm Tin Khơi Nguồn Ơn Phúc
  24. Niềm Tin Vào Đấng Phục Sinh
  25. Đức Kitô Đã Phục Sinh

ĐỀN ĐÁP ÂN TÌNH
Ga 20, 1 - 9

Tác giả Khải Hưng, một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có để lại cho chúng ta tác phẩm mang tên "Anh Phải Sống". Trong tác phẩm có kể lại câu chuyện của đôi vợ chồng nghèo ở ven sông, họ có một chiếc xuồng nhỏ, hằng ngày đi vớt củi trên dòng sông. Một hôm cũng với công việc hằng ngày như thế; hai người đang cùng với chiếc xuồng trên sông, thì mây đen kéo đến thật nhanh. Dòng nước trước đây hiền lành, giờ đây giống như con thú dữ nhìn thấy con mồi, cứ chồm lên. Chiếc xuồng nhỏ không thể chịu đựng được những cú nhảy của cơn sóng dữ, nó hất tung hai người xuống nước. Người chồng cố tìm kiếm và gặp được vợ; anh bảo vợ cố bám vào anh để tìm đường vào bờ. Với dòng nước chảy mạnh, những hạt mưa từ trên đổ xuống, thêm những cơn gió mạnh rít từng cơn làm cho dòng nước thêm giận dữ, gây khó khăn cho cuộc đua vào bờ của hai người. Người vợ chợt nhớ đến đứa con thơ, còn đang nhờ người trông chừng: không biết nó sẽ ra sao khi cả hai không vào bờ được. Nghĩ thế, nàng từ từ buông lơi bàn tay ra. Người chồng đang mệt nhoài vì chống chọi với giòng nước miệng cứ la lớn: cố lên, bám chặc vào... cố lên bám chặc vào. Bỗng nhiên anh cảm thấy như tăng thêm sức mạnh, anh bơi nhanh hơn, anh cố bơi và tìm đến bờ sông an toàn. Bỗng anh chợt nhận ra, thì người vợ thân yêu không còn bên cạnh anh nữa. Anh đi dọc theo bờ sông, nhưng không còn nhìn thấy gì nữa.

Đứa con sau này sẽ nghĩ gì, khi biết được câu chuyện yêu thương như thế? Chắc nó sẽ cố gắng sống cho thật xứng đáng, để không làm cho cái chết của người mẹ trở nên vô ích.

Chúng ta đang mừng Chúa Phục Sinh. Nhưng tại sao lại Phục Sinh. Thưa vì Ngài đã chết nên mới Phục Sinh. Tại sao lại phải chết? Thưa Ngài phải chết vì những cơn giận dữ không biết kiềm chế của con người. Ngài chết vì sự phản bội của con người, vì họ không biết tôn trọng nhau. Ngài chết vì con người hèn nhát không dám bênh vực cho công lý, lo sợ mất đi những quyền lợi, sợ mất đi những gì mình đang có. Ngài còn chết vì con người quá hờ hững, không nhận ra Ngài đang kêu mời họ đến với Ngài. Chết vì yêu thương.

Thật thế Ngài chết vì những người mà Ngài yêu thương, Ngài chết để cho họ được sống. Nhưng Ngài không để họ sống cô đơn, nên Ngài đã sống lại, để mang sự sống bất diệt đến cho họ.

Tất cả chúng ta đang sống vì Con Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta, chúng ta đang sống trong sự sống mới của Ngài. Nhưng những cơn giận dữ vẫn còn mãi và đang hoạt động mạnh mẽ trong mỗi người. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần phản bội tình yêu của Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta. Chúng ta vẫn cứ yên lặng trong sự hèn nhát của mình vì biết bao nỗi lo sợ ám ảnh cuộc sống. Còn nữa, sự ích kỷ chỉ nhìn thấy và chỉ biết có chính mình, làm cho chúng ta hờ hững với những người chung quanh, hờ hững với bao tiếng kêu than trách phiền. Như vậy chúng ta vẫn muốn cho cái chết của Đấng yêu thương chúng ta trở nên vô giá trị sao? Đứa con trong tác phẩm Anh Phải Sống của Khải Hưng có làm như thế không?. Chúng ta cũng phải sống sao cho xứng đáng với những gì mình nhận được.

Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào đó chúng ta nhận được sự vui mừng, như những người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu và được lệnh truyền đi loan báo tin vui mừng cho người khác; nếu sự hiện diện của chúng ta là một niềm vui cho người khác thì hạnh phúc cho chúng ta biết dường nào, hoặc những lời nói, những việc làm của chúng ta đem lại niềm vui cho người khác, thì lúc đó, chúng ta đang thực hiện lời Chúa Giêsu đi loan báo Tin Mừng cho người khác. Nếu trong đời sống chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, để biết đem tình yêu đó đến với mọi người; nếu chúng ta nhìn thấy được những người cần giúp đỡ và không ngần ngại, cho đi một chút thời gian, một chút tiền bạc, một chút gì mình có mà người kia đang cần. Nếu chúng ta biết dừng lại những lời nói không hay, mà nói lên những lời động viên an ủi để làm cho người trước mặt có thêm sức sống. Đó là chúng ta đang mang tình yêu thương của Đấng yêu thương chúng ta đến cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đang sống sự sống mới của Đấng Phục Sinh.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm vui Phục sinh và mang niềm vui đến cho mọi người.

NGÀI ĐÃ SỐNG LẠI
Ga 20, 1 - 9

Anh chị em thân mến,

Xin được kể một câu chuyện: Một người đàn bà nhà quê đến hôn chân Chúa Giêsu nằm trên Thánh giá. Một anh lính sô viết đến hỏi bà: "Tại sao bà không đến hôn chân vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, mà lại hôn chân một người chết trần trụi như thế?" Bà trả lời: "Có chứ, tôi sẽ hôn chân vị lãnh tụ, nếu ông ấy chịu đóng đinh vì tôi..." Thật, đúng như lời người đàn bà này nói: người Kitô hữu hôn chân Chúa Giêsu, nghĩa là tin nơi Chúa, chính vì Chúa đã chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại vì mọi người. Niềm vui của ngày lễ Phục sinh hôm nay, chính là Hội Thánh muốn mọi người hiểu rõ được chân lý đó. Trân trọng kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Chúng ta cần tìm hiểu vài câu:

Ngày đầu tuần, Maria Magdala đi ra mồ từ sáng sớm và thấy mộ trống: ngày đầu tuần: người Do thái lấy ngày thứ Bảy là ngày lễ, ngày nghĩ, nên ngày đi sau ngày thứ Bảy họ coi là ngày đầu tuần. Đó là ngày Chúa Nhật. Chỉ sau này, với lịch phụng vụ Rôma, người ta mới lấy ngày Chúa Nhật làm ngày đầu tuần...

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: theo lời mấy bà, trong đó có bà Maria Magdala, họ ra mồ Chúa từ sớm, nên họ thấy mồ trống; vì vậy họ chạy về báo tin cho các tông đồ hay, nên Phêrô và Gioan liền chạy ra mồ xem thực hư...

Ông đã thấy và tin. Trước đó hai ông không hiểu rằng: theo Kinh Thánh người phải chỗi dậy từ cõi chết... hai ông này đã chạy ra mồ, và thấy sự việc như lời các bà nói. Hai ông còn thấy băng vải liệm còn để đó; cả khăn che đầu cũng còn và được cuộn lại xếp qua một bên; đó là dấu chỉ cho biết Chúa đã sống lại, vì nếu Chúa không sống lại, hoặc ai đem xác Chúa đi giấu, không lẽ họ lại để khăn vải liệm ở lại, ngay trong mồ Chúa?

b/. Lễ Phục sinh không chỉ là cao điểm của mùa Phục sinh, mà còn là điểm cuối cùng của cả năm phụng vụ. Ngày lễ này, ngoài ơn lành Chúa ban cho, còn đem lại điều quan trọng hơn nữa vì đem lại sự sống thật cho người tín hữu: "nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin anh em thật là vô ích...". Đó chính là lời rao giảng rõ ràng của vị Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại trong thư thứ I gởi cho giáo đoàn Côrintô (ICor 15,17). Thật vậy, nhờ việc Chúa sống lại, người ta mới hiểu được giáo lý Chúa Giêsu đã dạy, mới hiểu được cuộc sống của Người ở trần thế.

Vì vậy, Hội Thánh không chỉ kỷ niệm lại biến cố phục sinh mỗi năm một lần, mà hàng tuần vào ngày Chúa Nhật nữa. Có một điều mà nhiều khi người Kitô hữu chúng ta không hiểu, mà cũng là một thách thức cho niềm tin chúng ta, đó là: Biến cố phục sinh quan trọng và lớn lao như vậy, lại không dựa vào những chứng cứ lịch sử cụ thể, rõ ràng, mà lại dựa vào lòng tin, căn cứ vào những chứng tích cá nhân, vào lời Kinh thánh đã tiên báo, vào lời Chúa đã nói trước (Mt 18,6) v.v...hoặc dựa vào chính máu đào của các tông đồ, họ đã tự nhận đã thấy và làm chứng để mọi người cùng tin(Cv 2,32)... Đúng là một mầu nhiệm, Thiên Chúa, chỉ hé lộ cho người thấy chút ít ở trần gian. Chỉ sau này trên nước trời, ta mới hiểu rõ ràng; vì khi còn ở trần gian, nếu ta hiểu rõ ràng cả, thì còn chi là công nghiệp nữa....

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự đã sống lại, điều này ta có tin không? Bà Maria và các tông đồ đã đồng hành với Chúa, đã trải qua cuộc khổ nạn của ngày Thứ Sáu, nghĩa là nhận ra Chúa vì yêu họ mà đã chết cho họ, nên họ đã tin Chúa phục sinh. Phần chúng ta, nếu chúng ta tin, thì tại sao nhiều lúc chúng ta vẫn sống thờ ơ, nguội lạnh, sống trong tội, sống như là không có Chúa hiện diện vậy? Ta nghĩ làm sao đây?

RA KHỎI MỒ
Ga 20, 1 - 9

Đại lễ Phục Sinh giúp chúng ta tưởng niệm lại biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại; ngày Chúa sống lại ra khỏi mồ một cách vinh hiển. Biến cố ấy chính là niềm hy vọng, là điểm đến và mong ước của toàn thể nhân loại. nếu Chúa Giêsu không sống lại thì bao nhiêu hy sinh mơ ước của con người ở trần thế này không còn ý nghĩa gì nữa.

Để nói về sự Phục Sinh! là một điều rất khó thuyết phục cho những kẻ cứng tin, hay cho những người chống đối. Cũng còn một số những người tin đó là một biền cố thật sự thì lại cố ý bóp méo hoặc nói sai lệch đi vì một nguyên nhân nào đó, như những tên lính canh chẳng hạn. Còn cuộc sống tân tiến như ngày nay thì họ xem cuộc sống lại mai sau là một cái gì huyền bí giả tưởng. mọi điều ophải được chứng thực bằng mắt thấy tai nghe, bằng những phương pháp mà họ có thể thử nghiệm được thì họ mới tin. Cho dù chúng ta tin hay không thì Thiên Chúa chết và sống lại cũng là một chân lý mà tất cả sự kiện và lịch sử đó đã được xảy ra hơn hai ngàn năm nay. Và trong thực tế cũng có rất nhiều lý chứng xác nhận Đức Giêsu Phục Sinh là sự thật.

Ngôi mồ trống và khăn liệm.
Người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống là Maria Madalena, bà đã nhìn vào trong mồ và thấy ngôi mộ trống, mà cho dù ngôi mộ cố trống thì cũng không thể khẳng định là Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng lúc đó bà Madalêna cũng không nghĩ là Chúa đã sống lại thật. Bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là: "người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ". Vật chứng tiếp thao là khăn liệm, một vật chứng rất có giá trị về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, hiện nay vẫn còn được giữ tại nhà thờ thánh Gioan, ở Turin Bắc nước Ý. Bên trong trong mồ các khăn liệm vẫn còn khác với Lazarô khi sống lại "chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn". Khi sống lại Chúa Giêsu không cần đến sự trợ giúp của ai khác, Vì chính Người đã lăn tảng đá đóng kín mồ thề nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thế ấy. Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết của Madalena, cũng như những người cho rằng xác Chúa đã bị đánh cắp. Vì không đời nào người trộm xác lại có thời gian thảnh thơi lột các khăn liệm ra sắp xếp lại cho ngay ngắn rồi mới ôm xác đi. Điều đó thật vô lý.

Như vậy khăn che mặt còn là một dấu chỉ vững chắc cho việc Chúa sống lại. Cũng nhờ dấu chỉ này mà Gioan đã tin Chúa sống lại ngay khi vừa mới bước vào trong mồ. Đây cũng là dấu chỉ cho tất cả những người đang còn nghi ngờ về sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta không đích thân thấy Chúa sống lại để tin, thì chúng ta cũng phải biết nhìn vào các dấu chỉ này để tin.

Đời sống chứng nhân.
Đức tin cũa chúng ta chỉ có thể đặt trên nền tảng của các nhân chứng, của những người đã được sống với Chúa. Có thể nói họ là những người gần gũi với Chúa như "hình với bóng". Hằng ngày họ được tiếp cận, gặp gỡ và hiểu Ngài hơn ai hết. Chính họ là những người đã chứng kiến tận mắt và sờ tận tay cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Người, và chứng từ của họ đã được chứng minh bằng chính giá máu, bằng chính cuộc sống của họ. Và như thề, chứng từ của họ là sự thật, vì không bao giờ có ai sẵn sàng chết cho một sự dối trá lừa đảo. Nhất là chứng thực của Thánh Phaolô. Ngày xưa Chúa vẫn là kẻ thù của Chúa, đi bắt đạo khắp nơi. Thế mà bỗng dưng ông thay đổi thái độ, bỏ chức quyền giàu sang, trở thàh thù địch của dòng họ chỉ vì tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Trước đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa Phục Sinh của ông và của các tông đồ, không còn có thể nói rằng chân lý ấy là một sự lường gạt dối trá nữa.
Cuối cùng ta cò thể kết luận: chúa giêsu đã sống lại và không ai có thể chối cãi. Những bằng chứng về sự Phục Sinh rất nhiều hiển nhiên, với hơn hai ngàn năm lịch sử, nếu là một chuyện hoang đường về một người tử tội sống lại sẽ không còn tồn tại như thế.

Lạy Chúa, biến cố Phục Sinh đã thắp lên trong tâm hồn con niềm hy vọng chứa chan, bởi vì nếu trung thành phụng sự Chúa, con cũng sẽ được chia sẻ. được sống lại trong vinh quang với Chúa. Amen

NIỀM VUI THAY ÐỔI LÒNG NGƯỜI
Ga 20, 1 - 9

Người ta thường nói: "Một nụ c ười bằng mười thang thuốc bổ " . Niềm vui sẽ làm cho con ng ười người ta phấn khởi và sống lạc quan hơn. Hơn nữa, niềm vui còn có sức làm thay đổi lòng người. Chúng ta đã qua Mùa chay của năm Phụng vụ 2008 và chúng ta đang cùng với Giáo hội bước sang mùa Phụng vụ mới - mùa Phục sinh. Ðây là mùa vui nhất trong cả năm Phụng vụ. Vui mừng vì Ðấng Cứu Chuộc chúng ta thật sự đã sống lại. Vui mừng vì Thầy của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vui mừng vì ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang như Chúa của mình.

Như chúng ta đã từng học trong giáo lý có hai dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thật sự sống lại: một là ngôi mộ trống với khăn liệm xếp ngay ngắn; hai là Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với nhiều người. Chẳng hạn như với Phêrô, Gioan hay như với Mađalêna.

Có một dấu hiệu khác mà có lẽ chúng ta ít để ý nhưng lại hết sức quan trọng. Ðó là sự thay đổi thái độ của các Tông đồ. Như chúng ta biết khi Chúa Giêsu bị bắt thì các Tông đồ như rắn mất đầu. Các ông chỉ còn biết trốn vào phòng đóng kín cửa mà không dám ra ngoài. Chỉ có Gioan là theo Chúa Giêsu tới cùng. Phêrô chạy theo nhưng khi bị người ta hỏi thì đã vội chối leo lẻo đến 3 lần. Còn các Tông đồ khác thì chẳng ai dám theo. Thế nhưng, Tin mừng phục sinh đã làm thay đổi hẳn thái độ của các ông. Từ những người nhút nhát sợ sệt chuyển sang can đảm, hăng hái đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.

Tâm lý thông thường khi có niềm vui thì chúng ta khó mà giữ riêng được cho mình. Chúng ta phải tìm mọi cách để cho nhiều người biết càng tốt. Bởi lẽ, "niềm vui chia sẻ thì nhân đôi còn nổi buồn chia sẻ thì vơi đi một nửa ". Các Tông đồ cũng thế, với Tin mừng phục sinh - một Tin mừng trọng đại các ông không thể ở mãi trong phòng được. Giờ đây các ông đã mạnh dạn mở toang cửa và chia mỗi người một ngã đi loan Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.

Qua Mùa Chay, Chúa và Giáo hội đã cho chúng ta nhìn ra được con người thật của mình: là một thụ tạo yếu đuối không hơn không kém. Dầu vậy chúng ta được chính Ðấng Tạo Hóa yêu thương là dường nào. Bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta cảm thấy vui mừng. Lại nữa Chúa Giêsu còn hứa: "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 3). Cho nên, nếu nh ư Chúa của chúng ta đã phục sinh vinh hiển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Người. Ðó là niềm tin của người mỗi người tín hữu chúng ta. Là những người tín hữu, chúng ta hãy sống như thế nào để mọi người xung quanh nhận thấy được đạo của chúng ta thật sự là đạo của niềm vui. Một gương mặt nhăn nhó, một lời nói xúc phạm đến danh dự của người khác hay một cử chỉ lừa dối chắc không thể loan báo Tin mừng phục sinh được.

Trong gia đình vợ chồng con cái biết hy sinh, đùm bọc, tha thứ và nhường nhịn nhau.
Trong cùng lối xóm biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Bởi lẽ "Bà con xa không bằng láng giềng gần".

Trong cùng họ đạo sống đoàn kết và lắng nghe nhau .
Khi sống tốt như vậy là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình cũng như đang loan báo Tin mừng Phục sinh.

Nguyện xin niềm vui phục sinh luôn ở mãi với gia đình cũng như từng người chúng ta.

PHỤC SINH NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠI
Ga 20, 1 - 9

Hôm nay toàn thể Giáo hội cử hành đại lễ Phục sinh. Đây là ngày mà Đức Kitô, người anh của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và chỗi dậy vinh quang tử nấm mồ. Ngài đã thực hiện điều này không phải cho chính Ngài nhưng là cho tất cả chúng ta. Ngài muốn chúng ta cũng được thông phần, sẻ chia chiến thắng vĩ đại trên tội lỗi và bóng đêm sự chết bằng cách tin cậy và hy vọng vào Ngài.

Đúng thế! Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.

Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì lý do của chúng rất đơn giản. Vì dù là biến cố vĩ đại, nhưng biến cố này đã được Đức Kitô thực hiện cách âm thầm, khiêm tốn. Chúa Giêsu phục sinh không xuất hiện một cách long trọng, vẻ vang trong đền thánh Giêrusalem để cho những người nỗi nang trong xã hội Do thái thời bấy giờ chiêm ngưỡng. Nhưng Ngài xuất hiện cho những người tầm thường, những người do chính Ngài ọi tên, những người cùng Ngài bẽ bánh, những người biết lắng nghe những lời bình an của Ngài... đặc biệt là những người biết ý thực được sự xuất hiện của Ngài. Và thậm chí họ là những người đã từng gặp khó khăn trong niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.

Tin vào biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu đã là một điều không phải dễ. Nhưng sống niềm tin ấy lại là một việc vô cùng khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại hành trình đức tin và thái độ của Phêrô, Gioan và Maria Macđala trước biến cố Phục sinh của Chúa.

Thời Chúa Giêsu, chắc chắn có rất nhiều người đến nghe Ngài rao giảng. Và chắc chắn tất cả những người trong nhóm họ ít hay nhiều cũng đã từng nghe qua lời loan báo Phục sinh của Chúa. Đặc biệt là các tông đồ, nhòm đông đảo môn đệ từng kề cận bên Ngài suốt những chặng đường rao giảng mà Chúa đã đi qua.

Nhưng sáng hôm nay, chỉ có một mình Maria đi thăm mồ Chúa từ sáng sớm. Việc thăm mồ của bà không phải hoàn toàn để tìm Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng bằng con tim dạt dào lòng mến đối với vị thầy Giêsu chí thánh đã từng tha thứ và hướng cuộc đời bà rời xa bóng đêm tội lỗi, lật sang trang mới. Chính lòng cảm mến đó đã thúc đẩy bà lên đường viếng mộ Chúa, đây chỉ là việc thăm viếng bình thường. Nhưng đau thương chồng chất đau thương, bà hốt hoảng, xót xa khi nhận ra xác Thầy không còn nữa. Bà không nghĩ rằng Chúa đã sống lại, đã quên lời Thầy báo trước hôm nào. Bằng linh tính của người phụ nữ và bằng cảm thức của một con tim dạt dào tình yêu đối với Chúa Giêsu làm bà lo âu khắc khoải. Bà nghĩ ngay "xác Thầy đã bị đánh cắp". Niềm hy vọng của bà hiện nay là làm sao tìm lại xác của Thầy đã chết.

Maria chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, cả ba hối hả chạy đến mồ. Không thấy xác Thầy đâu, chỉ còn lại nấm mồ trống trơ, lạnh vắng với những khăn vải liệm được xếp ngăn nắp. Đứng trước mồ Chúa, ba người có ba thái độ khác nhau.

Nhìn những tấm khăn vải liệm được xếp ngăn nắp, Gioan tin Thầy mình đã sống lại. Vì chẳng ai ăn cắp xác Chúa lại phải tốn giờ sắp gọn gàng khăn liêm như thế!

Còn Phêrô thì không thấy Tin Mừng ghi lại một lời nào trước ngôi mộ trống. Chúng chỉ biết thánh Phêrô trở về nhà trong sự thinh lặng và chìm sâu trong suy nghĩ. Không phải ngài cứng lòng tin. Nhưng có lẽ vì là thủ lãnh tông đồ đoàn nên ngài cần thận trọng khi tuyên bố những gì về đức tin. Vì lời tuyên xưng của ngài có ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội. Còn Maria thì vẫn là bâng khuân với suy nghĩ "xác Thầy đã bị đánh cắp".

Giờ đây, Chúa đã phục sinh! Cái chúng ta cần làm hôm nay chính là sống niềm tin ấy. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của Maria Macđala, nhưng cũng cần phải có sự nhạy cảm của Gioan để nhận ra dấu chỉ của Chúa và cần có sự thận trọng của Phêrô để khỏi rơi vào lầm lạc và mê tín. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh là biết nhận ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời nhất là ý nghĩa của đau khổ và sự chết. Chúng ta cần phải có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng trước những thất bại, dổ vỡ, mất mát trong cuộc đời. Tất cả những gì chúng ta đang tìm kiếm rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng chúng ta cần phải nhìn thấy sự phục sinh của Chúa ngang qua những gì hư nát. Như Gioan nhận ra Chúa đã sống lại khi nhìn những mãnh khăn liệm.

Niềm tin vòa Chúa Giêsu phục sinh chính là nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống vĩnh cữu. Chính niềm hy vọng này là sức mạnh giúp chúng ta kiên tâm, bền chí để vượt qua những thử thách nghiệt ngã, ngang trái trong cuộc đời. Qua đó, chúng ta có được một niềm vui âm thầm, lặng lẽ và cảm nhận được sự bình an sâu sắc từ trong sâu thẳm của tâm hồn. Vì chúng ta biết rằng: Tình yêu mạnh hơn sự sợ hãi, sự sống mạnh hơn cái chết và niềm hy vọng vượt thắng nỗi thất vọng.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc vượt qua của Chúa. Xin cho chúng con biết sống cuộc vượt qua của đời mình.
Vượt qua sự nhỏ mọn ích kỷ,
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống,
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã,
Vượt qua nhưng đêm tối cô dơn của vườn cây dầu đời con,
Vượt qua những nỗi khắc khoải, nghi ngờ trong niềm tin,
Vượt qua những thành kiến của con đang áp đặt cho người khác.
Ước gì chúng con biét noi gương Chúa Phục sinh, luôn biết gieo rắc bình an, hy vọng,
Tin tưởng và niềm vui khắp muôn nơi.
Ước ước gì mọi người khi gặp con cũng nhận ra sự sống mãnh liệt của Chúa. (Rabbouni)

VÌ YÊU
Ga 20, 1 - 9
Tôi muốn nhìn toàn bộ biến cố Phục sinh trong khía cạnh tình yêu để thấy được rằng, kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa là một kế hoạch của tình yêu từ khởi sự cho đến hoàn thành.

Trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan tông đồ đã viết như sau: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3,16-17). Như vậy, chúng ta thấy được rằng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể từ Giáng sinh cho đến chịu nạn chịu chết và Phục sinh là một chu trình khép kín của tình yêu. Chúa Cha yêu thế gian nên sai Con của mình xuống nhằm cứu chuộc thế gian. Rồi đến lượt mình, Đức Giêsu đã hoàn thành mọi sự theo ý Chúa Cha cũng vì tình yêu: Yêu mến Chúa Cha và yêu thương con người. Và kế hoạch yêu thương ấy sẽ còn tiếp diễn cho đến ngày tận thế.

Trong biến cố tử nạn của Đức Giêsu, rất nhiều người trong chúng ta hiểu cách sai lệch về Chúa Cha. Chúng ta nghĩ rằng: Thiên Chúa Cha là một bạo chúa khi bắt con của mình khi bắt con của mình đi vào con đường chết và chết một cách thê thảm như thế. Chúng ta có thể có quan niệm như thế là vì những từ ngữ được dùng trong thần học và Giáo lý như: giá chuộc, cứu chuộc, chuộc tội . . . Những từ ngữ ấy rất có thể làm chúng ta nghĩ sai lệch về Thiên Chúa Cha, bóp méo hình ảnh và khuôn mặt của Chúa Cha trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng thật ra, toàn bộ kế hoạch cứu chuộc con người là một kế hoạch của tình yêu. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, thì Chúa Cha là Tình yêu đóng đinh, còn Chúa Giêsu Kitô là Tình yêu bị đóng đinh. Chúa Cha không hề bỏ rơi Con của mình, cũng không bao giờ muốn Con của mình phải chết cách nhục nhã và đau đớn đến tột cùng như thế mới hả giận, mới tha thứ tội lỗi cho con người. Nhưng tất cả chỉ vì tình yêu dành cho con người mà thôi : "Thiên Chúa yêu thế gian"Trong vụ án Đức Giêsu và nhất là trên đỉnh đồi Calvê, hình như xung quanh Ngài chỉ toàn những kẻ chống đối, kết án và muốn loại trừ Ngài mà thôi. Còn những gương mặt yêu mến Ngài, những người kề vai sát cách với Ngài hầu như im hơi lặng tiếng. Trong giờ phút não nề và ô nhục đó, hình như tội ác đã chiến thắng, sự dữ đã lên ngôi và đè bẹp sự thiện. Vì thế, Đức Giêsu cảm thấy cô đơn tột cùng và Ngài có cảm tưởng như chính Chúa Cha cũng đã lìa bỏ Ngài nữa: "Lạy Cha, cả Cha cũng bỏ con sao?". Nhưng sau những giây phút kinh hoàng ấy, sau những giây phút lên ngôi tạm thời ấy, tội ác, sự dữ và tử thần bị đánh bại. Tình yêu sau những phút giây tạm thời mờ nhạt ấy giờ đã toả sáng. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần và đã Phục sinh khải hoàn vinh hiển! Tình yêu lên ngôi đã kéo theo những ai từng yêu và được yêu bắt đầu xuất hiện.

Trước hết là một gương mặt quen thuộc đã được Tình Yêu cứu vớt là Maria Mađalêna. Người phụ nữ này đã được tình yêu của Chúa bao bọc cách đặc biệt nên tâm hồn của bà luôn hướng về Chúa. Và chính tình yêu đã thôi thúc bà lên đường, ra đi viếng mộ Chúa từ lúc sáng sớm khi trời còn tối. Rồi khi nhận ra sự việc bất thường, tình yêu đã khiến đôi chân bà chạy thật nhanh "Xăm xăm quay gót băng đồng" để về báo tin cho 2 môn đệ là Simon Phêrô và Gioan.

Kế đến là Phêrô và Gioan, 2 người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến cách riêng. Tình yêu Chúa Giêsu nơi các ông đã khiến cho những bước chân của mình như nhanh hơn trong lúc chạy đến mộ Chúa. Gioan chạy nhanh hơn có lẽ vì ông còn trẻ hơn Phêrô, nhưng chắc chắn là ông được động lực của tình yêu thúc đấy nữa. Rồi cũng vì tình yêu sâu đậm với Thầy Giêsu nơi ông, ông đã tin vào lời Chúa Giêsu đã nói : "Sau 3 ngày, Thầy sẽ sống lại". Tình yêu đã khiến cho mắt tâm hồn ông sáng hơn để nhận ra sự thật và hết lòng tin tưởng vào sự Phục sinh của Thầy mình.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng là những con người được Thiên Chúa yêu thương, là "con yêu quí của Chúa Cha", chúng ta có bừng sáng niềm tin và hy vọng trong biến cố Phục sinh huy hoàng của Đức Giêsu Kitô hay không? Nếu chỉ xét về lý mà thôi hay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể theo kiểu của Tôma ngày xưa, thì có lẽ chúng ta trở thành những kẻ dửng dưng với biến cố Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng nếu chúng ta có niềm tin và lòng yêu mến nơi Ngài, thì mắt tâm hồn của chúng ta sẽ sáng lên và sẽ nhận được niềm vui Phục sinh đang tràn lan trong tâm hồn chúng ta cũng như nơi toàn thể vũ trụ này nữa.

Chúa đã Phục sinh là sự thật. Các tông đồ và những môn đệ được Chúa yêu đã minh chứng cho chúng ta sự thật ấy. Thật ra, nếu chúng ta là những kẻ mạnh tin, thì chẳng cần gì đến những chứng cứ theo kiểu thế gian nữa, chỉ cần tin vào Lời Chúa là đủ. Ước gì sự thật "Chúa Phục sinh" luôn là động lực giúp ta hoàn thành cuộc đời cách ý nghĩa và tích cực nhất. Ước gì sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta. Ước gì chúng ta là những kẻ được Chúa yêu cách đặc biệt luôn nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống động trong cuộc đời của mình qua mọi biến cố hằng ngày. Amen.

NIỀM TIN VÀO SỰ PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9

Cái chết của Đức Giêsu Nazareth là sự thất bại quá lớn trước mắt mọi người, kể cả các tông đồ. Thật vậy, thế lực của đền thờ bắt tay với quyền bính xã hội đã treo Đức Giêsu lên thập giá, như một tên tội phạm đáng nguyền rủa. Nhưng với Đức Giêsu, đó chính là con đường mà Ngài phải đi qua, vì Ngài đã từng ví von: "Nếu hạt lúc gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Gn 12,24).

Vâng, vũ trụ như ngưng lại, im lìm vì than khóc Con Thiên Chúa. Thế nhưng hôm nay, sự im lặng ấy bị phá tan do lời công bố: "Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết!" (x. Mt 28,7). Muôn vật mừng rỡ hân hoan trước biến cố huy hoàng ấy. Khi đó, mọi người hiểu rằng hy lễ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở cái chết mà hướng đến sự Phục Sinh. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu không phải là một cuộc chiến bại mà là một chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi. Với niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Giáo Hội đã long trọng tuyên xưng: "Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau" (kinh Tin Kính).

Ngày nay, con người tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Nhưng nếu nhìn sâu vào đời sống của xã hội loài người, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại nhiều mưu mô cám dỗ, nhiều cạm bẫy của thế lực ma quỷ chờ chực, lôi kéo con người trở lại với những gì là thấp hèn, bỉ ổi của thú tính. Nhìn xem trên các phương tiện truyền thông, chúng ta không khó để tìm thấy những tin tức về chiến tranh, áp bức, thác loạn... Mọi người vẫn đang chứng kiến bao cảnh khó khăn của đồng loại, bao bất công của xã hội loài người. Tất cả chỉ vì con người vẫn mãi tìm kiếm những gì thấp hèn thuộc hạ giới.

Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Đức Giêsu đã mở ra. Từ đó, nhưng hòn đá chôn vùi cuộc đời ta cũng sẽ được lăn đi. Đó có thể là hòn đá ích kỷ, tham lam, lãnh đạm, thiếu tình thương... Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp ta lăn những hòn đá ấy đi, để ta mạnh dạn sống niềm tin qua việc dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, thực thi bác ái tích cực hơn.

Do đó, để thực sự sống lại với Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy trở lại với cõi lòng mình để xét xem những hòn đá nào cần được lăn đi. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy vứt nó ra khỏi cuộc đời mình, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Bên cạnh đó, mỗi người cũng cần phải trở nên công cụ trợ lực cho nhau, để mọi người cùng hưởng chung niềm vui Phục Sinh.

Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống, và Ngài đã phục sinh để năng đỡ niềm tin của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng. Chúng ta quyết tâm tiếp tục sống cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin, dám chết cho một cuộc tình. Chúng ta tin vững vàng vào Chúa và can đảm tận hiến đời mình cho luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em. Chắc chắn niềm hy vọng của chúng ta sẽ trở thành hiện thực khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại trong vinh quang.

ĐỨC GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI THẬT VÀ CÁC CUỘC ĐỔI ĐỜI
Ga 20, 1 - 9
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Câu nói nổi tiếng của thánh Phaolô đã thể hiện niềm tin tuyệt đối, niềm hy vọng chắc chắn của ngài vào Đức Kitô Phục Sinh, ngài nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14); "Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Ðức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người" (1Cr 15,17-19). Đúng thế, nếu cả cuộc đời của mỗi chúng ta, sự hy sinh dài lâu cho một con người mà chính người đó lại kết thúc cuộc đời của họ qua cái chết thì quả là một điều vô lý, hão huyền, thua thiệt và dại dột. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng mà các môn đệ tin; nhiều người Dothái tin; Giáo Hội tin; và chúng ta tin, Ngài đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã sống lại thật.

Như vậy, niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu quả là khôn ngoan và có cơ sở vững vàng. Vậy tại sao biết được Đức Giêsu chết thật, và luận cứ gì làm bảo chứng cho niềm tin Ngài đã sống lại? Việc Ngài chết và đã phục sinh có để lại dấu ấn gì nơi những người tin hay không?

1. Đức Giêsu đã chết?

Đức Giêsu đã chết thật. Đây là lời khẳng định rõ ràng qua các chứng cứ sau:

Cái chết của Ngài là hệ quả của những phiên tòa do những tác động gây sức ép từ phía dân chúng, khiến những nhà lãnh đạo tôn giáo Dothái thời bấy giờ kết án tử Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã bị xử tử theo trình tự như: bị đánh đòn; vác thập giá; bị đóng đinh với hai tên gian phi trên đỉnh đồi Canvê.

Khi họ đóng đinh xong, Đức Giêsu đã chết thật, nên quân lính không đánh dập ống chân Ngài nữa, tuy nhiên để cho chắc ăn, một người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh nương long Đức Giêsu, tức thì máu và nước đã vọt ra cho thấy nhát đâm của người lính này đã đâm trúng tim của Đức Giêsu.

Sau đó, có các môn đệ thầm lặng của Ngài như Giuse Arimathia đến xin lĩnh xác Đức Giêsu để táng xác. Philatô đã đồng ý, nhưng ông vẫn phải hỏi lại viên sĩ quan phụ trách thi hành án xem Đức Giêsu đã chết thật chưa? Khi được trả lời là đã chết thật, Philatô mới cho phép tháo xác Đức Giêsu xuống để an táng. Và, họ đã an táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới.

Như vậy, Đức Giêsu đã chết thật. Không thể không tin vào chuyện này được. Tuy nhiên, nếu cái chết là điểm đến, là kết cục, thì nó là chuyện vô lý, không có gì để chúng ta bàn nữa. Nhưng cái chết đã không còn quyền chi đối với Đức Giêsu khi Ngài đã phục sinh.

2. Ngôi mộ bị bỏ trống

Trong kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu: "... ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết". Ngài đã sống lại và đã ra khỏi mồ. Vì thế, sự kiện ngôi mồ trống là điều mà mỗi người chúng ta cần quan tâm.

Tin Mừng cho thấy vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đi ra mồ, khi tới nơi, họ không còn thấy xác Đức Giêsu trong đó nữa. Các bà thì ngỡ ngàng và không hiểu tại sao lại như vậy? Phải chăng Ngài đã phục sinh như lời Ngài đã phán trước? Và thật thế, Thiên Thần đã trấn an các bà, để các bà khỏi hoảng hốt, khiếp đảm và bỡ ngỡ, Thiên Thần nói: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. (Mt 28,5-6). 

Còn đối với những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu thì có sẵn những âm mưu từ trước nên đã gán cho sự việc này giả thiết như sau: có thể các môn đệ của ông ấy đến ăn cắp xác Đức Giêsu và phao tin Ngài đã sống lại? Và những Thượng Tế, Kỳ Lão đã cho tiền quân lính để chúng đồng thuận với họ về ý tưởng này.

Tuy nhiên, giả thiết này đưa ra thật không có bằng chứng và đáng ngờ vì những lý do:

- Thứ nhất, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ họ đã nghe biết Đức Giêsu nói là sẽ sống lại, nên họ đã đề phòng cẩn thận, bởi vì nếu không lường trước sự việc, thì không khéo điều đó diễn ra thật thì chẳng khác gì như một cú tát, bát nước lạnh tạt vào mặt những kẻ kết án Đức Giêsu, còn với chính họ, chẳng khác gì tự mình ngửa mặt lên và nhổ nước miếng...?Vì thế, họ đã  đặt một đội lính canh tinh nhuệ để trông chừng, phòng chống những rủi ro sẽ sảy ra.

- Thứ hai, nếu gán rằng có kẻ thù ăn cắp xác Đức Giêsu thì lại càng không ổn, vì nếu làm nhưu vậy thì vô hình chung lại là điều kiện tốt cho việc phao tin Đức Giêsu sống lại. Và tỷ lệ thuận là điều có thể xảy ra đối với những người đã từng cảm phục Đức Giêsu lúc Ngài còn sống.

- Thứ ba, điều này rất khó xảy ra vì các Tông đồ phần đông là dân chài lưới, ít học, lại kém tin nữa. Bằng chứng là khi cuộc thương khó của Đức Giêsu đến, các ông đã bỏ trốn, có kẻ còn trút lại cả quần áo để miễn sao thoát thân, rồi Phêrô là Tông đồ trưởng nhưng đã vì lo sợ mà trối cả Thầy mình, rồi sau khi Đức Giêsu chết, họ tụ họp với nhau nhưng cửa đóng then cài vì sợ người Dothái..., tiếp theo là sự thất vọng được lộ rõ trên khuôn mặt của hai môn đệ trên đường Emmau. Như vậy, không có lý do gì mà các môn đệ của Đức Giêsu làm được chuyện này trước một đội lính tinh nhuệ và có bề dày kinh nghiệm...

Như vậy, Đức Giêsu đã sống lại thật và sự kiện ngôi mồ trống là bằng chứng.  Đây là dấu chỉ thứ nhất. Dấu chỉ thứ 2 là những lần hiện ra với nhiều người, nhiều nơi và cùng lúc, cũng như những người đó lần lượt nhận ra Ngài với những kỷ niệm và những dấu hiệu mà họ đã biết trước đó.

3. Những cuộc hiện ra

Điều đáng nói và cũng là quan trọng nhất, đó là tất cả những diễn biến qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Đức Giêsu đều được Kinh Thánh báo trước. Khi thì qua hình ảnh, dấu chỉ, tiên báo, hay do chính Ngài loan báo với các môn đệ: Thầy "phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại"  (Mt 16, 21). Và hôm nay, Ngài đã sống lại, đã hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).

Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:

Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16); những hành động Ngài làm (x. Lc 24, 35); hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45)...

Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).

Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi...thì mới không tin mà thôi.

4. Những cuộc đổi đời

Cuối cùng, như trong phần mở đầu đã đề cập đến lời tuyên xưng của thánh Phaolô khi nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14). Cũng vậy, nếu Đức Giêsu đã không sống lại thì làm sao có những cuộc đổi đời ngay tức khắc như vậy?

Các Tông đồ, là những người nhát đảm sợ sệt, ấy vậy mà sau biến cố phục sinh của Đức Giêsu, các ông đã trở nên mạnh dạn khác thường.

Nếu trước kia họ chỉ là người đi theo Thầy của mình, thì từ ngày Thầy mình phục sinh, các ông đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng bị đóng đinh và đã sống lại để rao giảng chân lý Tin Mừng.

Nếu trước kia, các ông là những người ít học, khô khan, kém hiểu biết, thì sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông đã hiên ngang, hùng hồn, uyên thâm khi rao giảng về Đấng đã bị chính dân mình giết chết.

Nếu việc Đức Giêsu sống lại chỉ là chuyện bịa đặt thì làm gì các ông lại dại dột mà đi phỉnh lừa người khác, trong khi mình còn biết bao chuyện phải lo... và các ông cũng đều biết rằng việc các ông rao giảng về Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc lãnh nhận sự liên klụy và sẽ có nguy bị giết chết.

Nhưng không! Các ông đã không sợ, bởi vì giờ đây, các ông mới hiểu rõ rằng Đức Giêsu là Chúa; là đường, là sự thật và là sự sống. Nên không có gì tách các ông ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là gian truân, thử thách, gươm đao và ngay cả cái chết, bởi vì mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, nên vì Ngài, các ông đành mất hết để được tất cả, và đỉnh cao của cái được đó là đồng hiển trị với Ngài trong Vương Quốc của Ngài. 

Rồi trải qua biết bao thế hệ, trên khắp thế giới, có biết bao nhiêu con người đã bất chấp hiểm nguy, rừng thiêng núi độc, hiểm trở trăm bề, nhưng vẫn quyết chí lên đường để đi và đến nhằm loan báo Tin Mừng về một Đức Giêsu đã chết, đã phục sinh hầu cứu chuộc nhân loại..., và nếu cần thiết, các ngài sẵn sàng lấy mạng mình để minh chứng điều mình tin là thật. Các thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta là một điển hình.

Như vậy, không ai và cũng không thể nào kéo dài cả hơn 2000 năn nay với một câu chuyện, một niềm tin vô lý được! Và nếu tồn tại đi chăng nữa thì chúng ta là những kẻ ngu dốt nhất trong thiên hạ vì đã tin vào cái xác chết. Nhưng không! Chúng ta tin vào Đấng đã chết và đã phục sinh, và Đấng ấy có đủ quyền năng để dẫn đưa những ai cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh, vì Ngài đi trước dọn chỗ cho chúng ta.

Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thêm đức tin và vững lòng trông cậy theo Chúa đến cùng để được Ngài cho phục sinh vinh hiển. Amen.

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
Ga 20, 1 - 9

1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

2. CÂU CHUYỆN: VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: "Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?" Người đáp: "Đúng vậy !" Thiên thần hỏi tiếp: "Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?" Chúa trả lời: "Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi". Thiên thần lại nói: "Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?"  Chúa đáp: "Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi". Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ thiện chí của họ nên hỏi tiếp: "Giả như Phê-rô, Gio-an và các tông đồ quên thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?" Chúa Giê-su trả lời: "Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó".

3. SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:

- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:

Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau: "Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17).

- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).

- LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA THỨ VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN:

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng,  Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin "Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được  trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).

Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).

- GIÁ TRị CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến  cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).

4.THẢO LUẬN:

1) Nơi Đức Giê-su "sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù". Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì "Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng", "Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai" hay không ?

2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng tín thác vào Chúa, Người sẽ kíp thời ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian... hầu noi gương các thánh: chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.    - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH -  HHTM

LỄ PHỤC SINH: SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Ga 20, 1 - 9
Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê

Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết! Đó là mầu nhiệm mà chúng ta cử hành hôm nay. Toàn bộ phụng vụ tóm gọn trong câu này: "Sau ba ngày, Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại." Phêrô đã giảng cho Ong Cornêliô và gia đình của ông (Bài 1). Đối với Thánh Phaolô, sự sống lại của Đức Giêsu Kitô - ý thức của kitô hữu về mầu nhiệm này - là nền tảng của mọi việc đạo đức kitô, và do đó thúc đẩy ta suy nghĩ và tìm kiếm những việc trên trời chứ không phải những việc dưới đất (bài 2). Trong bài Tin mừng, trích từ chương 20 tin mừng theo Thánh Gioan, cả bài tường thuật chú ý vào ngôi mộ trống, nhưng chỉ để làm nổi bật niềm tin của người môn đệ được Chúa yêu vì theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Tin Mừng).

Sứ Điệp Niềm Tin
Điểm đầu tiên cần ghi nhận đó là chúng ta đang đối diện với một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm làm ta kinh ngạc và vượt trên chúng ta.

Đây chẳng phải là điều phi lý nhưng là điều vượt lên trên mọi rào cản của lý trí nhân loại và cách thức hiểu biết thực tại của chúng ta. Đây là điều cần phải được giữ bằng lòng mến và lòng tin hơn là bằng trí hiểu. Đây là điều mà càng khát khao thì ta càng thấu rõ tuy chắc chắn vẫn còn những điều vượt quá tầm tay của ta. Sau cùng, đây là điều mà ở đây ngay trong đời sống nhân loại không thể chạm tới được, thật tuyệt hảo và đầy ấn tựơng.

Khi chúng ta nói về mầu nhiệm, bất cứ mầu nhiệm nào nhưng nhất là mầu nhiệm Đức Giêsu sống lại, mầu nhiệm đó có liên quan đến ta cách riêng biệt và ta không thể giả vờ không biết điều ấy, mầu nhiệm này liên kết chặt chẽ với đời sống và hạnh phúc của ta. Một mầu nhiệm từ đó con người không thể "trốn thoát" mà không làm phương hại chính mình.

Cần thêm rằng thật tốt và ích lợi cho ai "chạm" đến hoặc được mầu nhiệm ấy chạm đến. Có người nghĩ rằng vì là mầu nhiệm nên điều đó làm nhục ta, làm ta mất danh giá, đánh mất tự chủ và sự cao cả, đánh gục ta ngay từ nền tảng lý trí và dẫn ta vào đường lối mù quáng của sự cả tin. Chẳng có gì sai lạc cả! Đối diện với mầu nhiệm nghĩa là với điều gì vượt trên việc ta kinh nghiệm về sự vật và con người, là dấu chỉ của cội nguồn cho thấy rằng con người không hoàn toàn là trần tục, và được mời gọi đến một thế giới cao hơn cái cát bụi trần đời này.

Sau cùng, mầu nhiệm nhắc nhớ, làm sống lại nơi con người nơi mà từ đó nó phát xuất ra, sứ mạng của nó ở trần gian, điểm đến và mục đích cuộc đời của nó. Đó chẳng phải là sự cao cả của con người khi sánh với thế giới thụ tạo đó sao?

Hôm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, sự sống chiến thắng sự chết, bảo đảm cho sự sống vĩnh cửu của ta, được ẩn giấu nơi Thiên Chúa. Mầu nhiệm này không được truyền lại cho ta nhờ các nhà tư tưởng vĩ đại nhất lịch sử hoặc nhờ những nhà thần bí trong các tôn giáo. Ta cũng chẳng thể biết gì nhờ các pháp sư các phù thủy đủ loại qua các thời đại.

Mầu nhiệm này được mạc khải cho ta nhờ chứng cứ của "những người đã thấy và đã tin". Không do kết quả nổ lực của con người, nhưng là bằng chứng của một kinh nghiệm lạ lùng đậm dấu ấn mãi mãi trong cuộc đời của con người. Là bằng chứng, ta chỉ có thể tin hoặc không tin chứ không thể chứng minh được. Nhưng một bằng chứng trở nên đáng tin nhờ dòng máu của các vị tử đạo, và hợp lý dù ta có chấp nhận hay không. Đó là lý do sự sống lại của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm của niềm tin nhưng hoàn toàn hợp lý và khả tín và hết sức quan yếu cho cuộc sống con người trong trần thế.

Gợi ý Mục Vụ
Trong việc dạy giáo lý và trong việc mục vụ suốt mùa Phục sinh, cần lưu tâm trao cho giới trẻ và những người trưởng thành một giải thích tốt rõ ràng về ý niệm và ý nghĩa của mầu nhiệm. Làm thế, một đàng ta tránh chủ thuyết tin mù quáng. Đàng khác ta muốn tránh không để mầu nhiệm được quan niệm như là điều gì phi lý, chỉ dành cho người tiền sử hoặc trẻ con hoặc cho người yếu tâm lý, và là điều không tương hợp cho con người tri thức trưởng thành ngày nay.

Xét lại ý niệm về mầu nhiệm đối với các tín hữu, bằng những từ ngữ rõ ràng chính xác, là điều quan trọng giúp người ta đến gần những mầu nhiệm lớn trong đời sống kitô bằng niềm tin và bằng lý trí. Tôi tin rằng hai chiều kích cần được nhấn mạnh.

Một, mầu nhiệm là điều hợp lý, tuy nó vượt xa biên giới của lý trí. Lý trí nói: Xa tầm tay của tôi, nhưng không nghịch lại những nguyên tắc chính yếu cho việc suy tư, và cũng có yếu tố cảm nhận được hoàn toàn hợp lý.

Hai, mầu nhiệm cần thiết cho đời sống con người. Dù họ không thể hiểu thấu hết mầu nhiệm, mầu nhiệm vẫn có liên hệ mật thiết với họ, thay đổi hướng sống, dù người ta chẳng quan tâm đến mầu nhiệm.

Thay vào đó, nếu họ để cho cuộc đời họ chạm đến mầu nhiệm, đó là điểm quy chiếu, một sức sống sẽ thâm nhập và tràn trào trong cả cuộc sống, biểu lộ trong mọi công việc. Trong cuộc sống đời thường của kitô hữu, của giáo dân, mầu nhhiệm Đức Giêsu Kitô phục sinh có còn quan trọng không? Vậy làm sao nó trở nên quan trọng đối với mọi người được?

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI: HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Ga 20, 1 - 9
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Nếu có một người nào đó nói với bạn: "chết rồi sẽ sống lại", chắc bạn sẽ bĩu môi, suy nghĩ và có khi hoang mang chưa dám tin, vì đức tin bạn yếu hay bạn chưa có lòng tin. Và đây, có một câu chuyện thật một trăm phần trăm đã xẩy ra cách đây 2002 năm trong lịch sử nhân loại. Đức Giê-su Ki-tô đã đến trần gian, sống với trần gian, sống cho trần gian, hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ba năm Chúa Giê-su đi giảng đạo, Người đã kết nạp các môn đệ, giáo dục, cắt nghĩa, giải thích cho các môn đệ nhiều điều; sau cùng tới thời đã định, Người đã chấp nhận ý Thiên Chúa Cha, chịu chết treo trên thập hình tự giá dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, con người đã chôn Ngài trong mồ đá, nhưng sau ba ngày Ngài đã sống lại đúng như lời Ngài đã loan báo trước... Đó là biến cố vô cùng quan trọng đã làm đảo lộn lịch sử nhân loại, xôn xao dư luận từ 2002 năm nay và chắc chắn còn tiếp tục mãi cho đến ngày tận thế... "Ta là sự sống lại và là sự sống;ai tin Ta, sẽ không chết đời đời" ( Ga 11, 25a. 26 )

I. Vẫn là cái ngớ ngẩn của các môn đệ, của dân Do thái và nhiều người:

Chúa Giê-su sau thời gian ẩn dật ở Na-da-rét với cha mẹ Ngài. Ba năm đi rao giảng công khai, Chúa Giê-su đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài, Ngài đã giảng dạy, uốn nắn, giải thích, cắt nghĩa cho các môn đệ nhiều điều, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ trước mặt các môn đệ để củng cố lời nói của Ngài như phép lạ nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana ( Ga 2, 1 - 11 ), làm cho bánh hóa nhiều để nuôi nhiều ngàn người ( Mt 14, 13 - 21 ), làm cho kẻ chết sống lại ( Mc 5, 21 - 43; Lc 7, 11 -12; 11, 1 - 14 ) v.v... Ngài đã trừ quỷ, chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền.

Nhưng phép lạ lớn nhất vẫn là phép lạ chính Ngài đã chết thật trên thập giá, đã được an táng trong mồ, chỉ ba ngày sau tự Ngài đã sống lại như lời Ngài đã loan báo trước ( Ga 20, 31 ). Các môn đệ còn mê muội không hiểu gì về biến cố lớn lao ấy vì rằng Thánh Thần chưa mở trí cho các ông. Vâng, trước khi thực hiện thánh ý Chúa Cha cứu đời, Chúa Giê-su đã nói gần, nói xa với các môn đệ. Nhưng lòng trí các môn đệ vẫn nặng nề chưa làm sao hiểu nổi, các môn đệ cũng xin Ngài giải thích thêm nhưng họ vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa. Họ cứ tưởng rằng Thầy mình sẽ khôi phục lại nước Ít-ra-en theo kiểu trần gian, để mỗi một môn đệ sẽ trở nên công hầu khanh tướng trong vương quốc của Thầy Giê-su. Các môn đệ vẫn còn cái óc xưng hùng xưng bá, cứ tưởng rằng thầy Giê-su sẽ làm Vua như kiểu các vua thế trần. Thế nên, mới có chuyện bà mẹ hai con ông Giê-bê-đê tới xin xỏ với Chúa Giê-su cho một đứa con ngồi bên tả và một đứa ngồi bên hữu. Thế mới có chuyện Phê-rô, vị thủ lãnh các Tông Đồ vừa tuyên xưng Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, được Chúa khen tặng, nhưng khi nghe Ngài loan báo ý định chịu chết cứu đời thì Phê-rô đã vội vã cản đường Ngài.

Đúng là các môn đệ đã chẳng hiểu tí gì về con đường Chúa Giê-su phải đi, không hiểu gì về ý định của Ngài là phải tuân phục ý Chúa Cha: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta" ( Ga 4, 32 ). "Người đã hạ mình xuống, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" ( Pl 2, 8 ). Chúa Giê-su đã chết và được Phi-la-tô giao tử thi cho ông Giu-se, một nghị viên quê ở A-ri-ma-thê chôn cất ( x. Mc 15, 42 - 46; Ga 19, 38 - 42 ).

Tuy nhiên biến cố mồ trống từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần đã làm mọi người hoang mang, nhất là các bà phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm, trong đó có cả Phê-rô, vị lãnh đạo Giáo Hội tương lai. Quả thực, hiện tượng hoang sơ của ngày thứ nhất theo sách Khởi Nguyên, là một sự trống vắng, mông lung. Ngày thứ nhất ấy đã được khỏa lấp bằng ngày thứ nhất Phục Sinh khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại. Người ta có thể nhất trí với nhau rằng nếu mọi việc đều bình thường tự nhiên, nghĩa là khi Ma-ri-a Mác-đa-la, vài phụ nữ khác, Phê-rô và Gio-an ra mộ và thấy xác Chúa Giê-su vẫn còn nguyên nằm đó thì không có Tin Mừng Phục Sinh, không có tin được loan truyền, được loan báo. Nhưng mọi sự đều khác: Sự kiện mồ trống(Mt 28, 1-8). Chúa hiện ra với Ma-ri-a ( Ga 20, 11 - 18 )...

Các môn đệ ngay chính lúc đó vẫn chưa hiểu nổi lời Thánh Kinh: "Đức Giê-su phải sống lại từ cõi chết" ( Ga 20, 9; Cv 2, 24 - 31; 13, 32 - 37 ). Vì thế, các người Do-thái và nhiều người khác lại càng tỏ ra mù tịt về biến cố Chúa Giê-su sống lại. Các vị lãnh đạo Do-thái giáo, dân Do-thái và thế gian độc ác tưởng rằng đã giết được Chúa Giê-su, tưởng rằng đã loại trừ được Ngài là họ đã chiến thắng. Họ có biết đâu: "Chúa Giê-su đã chiến thắng tử thần. Ngài đã trở thành bất tử". Các người Do-thái, các Tư Tế, Thượng Tế, Biệt Phái và nhiều người khác đã ấm ớ như bọn lính được các quan chức cho tiền để tung ra tin giật gân, hầu mập mờ đánh lận con đen: "Lính canh lãnh tiền và được dạy sao thì làm như vậy" ( Mt 28, 11 - 15 ).

II. Gioan đã tin, các người phụ nữ cũng đã tin...
Gio-an, người môn đệ Chúa Giê-su yêu, đã ngồi kề ở ngực Chúa trong bữa Tiệc Ly, khi chạy tới mộ trước Phê-rô, thấy khăn liệm đã được cuộn lại, khăn phủ đầu để một nơi gọn gàng, Gio-an liền tin ( Ga 20, 5 - 8 ). Gio-an đã có cái nhạy cảm từ con tim vì chính Chúa Giê-su đã tỏ lộ cho ông nhận ra sự kiện huyền diệu ấy. Gio-an đã nhận ra ngay dấu chỉ của sự kiện Phục Sinh: Ngài phải sống lại từ cõi chết. Thân xác của Ngài theo lời Thánh Kinh phải đi vào cõi vinh quang, cõi vĩnh hằng. Nó không thể là thân xác trở lại cuộc sống trần thế bình thường như con trai bà goá thành Na-im, con gái ông Giai-rô và La-da-rô được Chúa Giê-su cho sống lại. Nhưng thân xác của Chúa Giê-su lúc này đây sẽ trở nên khác hẳn như thánh Phao-lô so sánh: "Khi bị an táng, nó là một thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành một thân thể tinh thần" (1 Cr 15, 37.42 -44 ).

Gio-an đã có trực giác rất nhạy bén vì người vào mồ trước không phải là Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng không phải là Gio-an mà là Phê-rô vị thủ lãnh các Tông Đồ. Trực giác của Gio-an chỉ ra rằng: tin thấy chưa đủ mà phải phát xuất tự tình yêu. Gio-an đã sống trong tình yêu tuyệt đối, nên ông đã nhận ra Chúa sống lại trước hết mọi người. Ông tin có sự sống đang ở đó, rằng tình yêu không chết, tình yêu rất sống động. Phê-rô đã thấy tất cả sự việc, Ma-ri-a đã thấy tảng đá đậy mồ bị đẩy ra ngoài nhưng cả Phê-rô, cả Ma-ri-a đều chưa hiểu gì về lời Thánh Kinh đã nói trước.

Vâng, Gio-an đã thấy và đã tin. Rồi sau này Phê-rô cũng đã từ từ được ơn soi sáng và ông cũng sẽ nhận ra Chúa đã sống lại. Còn Ma-ri-a Mác-đa-la, sau sự kiện mồ trống, sau ánh sáng mù mờ còn xám xịt của buổi sớm tinh mơ, Ma-ri-a đã không kịp xoay sở khi Chúa hiện ra với bà, và bà cứ tưởng đó là người làm vườn. Cho đến khi Chúa âu yếm kêu tên bà thì bà mới nhận ra Chúa Phục Sinh: "Rabboni" ( Lạy Thầy ). Chúa Phục Sinh đã nói với bà: "Hãy về loan bao với anh em Ta..."

Tất cả như bừng tỉnh sau một giấc mơ dài nhuộm mầu u tối. Dưới lăng kính của ánh bình minh. Gio-an Phê-rô, Ma-ri-a Mác-đa-la và các người phụ nữ đã nhận ra Chúa Phục Sinh với con tim, với đức tin của mình.

III.Tin Mừng Phục Sinh vẫn luôn là thánh đố :
Người ta cứ tưởng rằng giết được Chúa Giê-su là mọi sự đã chấm dứt. Người ta vẫn hão huyền, vẫn mơ mộng:Có người đã tin, có người còn mập mờ, có người không tin. Đã hơn hai ngàn năm, biến cố Phục Sinh vẫn luôn là thách đố dai dẳng. Người ta vẫn mập mờ như buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần khi Ma-ri-a ra mộ: đáng lẽ xác Chúa vẫn phải còn ở đó, nhưng những gì Ma-ri-a nắm bắt được là sự thiếu vắng mất mát, chỉ thế thôi ! Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng nhiều người vẫn chưa bừng tỉnh, họ vẫn như còn sống trong một cơn mơ dài không lối thoát. Có những người tưởng Chúa đã chết và như thế là chấm dứt tất cả !

Chính vì thế có một triết gia nổi tiếng đã viết: "Dieu est mort !" ( Thiên Chúa đã chết ! ) Tuy nhiên, dựa vào Lời Chúa, chính Chúa đã nói: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống" ( Mc 12, 18 - 27 ) hoặc "Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sai hoa kết trái" ( Ga 12, 24 ).

Mừng lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta không được hạnh phúc như Phê-rô, như Gio-an và Ma-ri-a Mác-đa-la đã thấy tảng đá được lăn ra, khăn liệm, khăn phủ đầu và mồ trống. Tuy nhiên chúng ta còn hạnh phúc hơn vì chúng ta có lòng tin: chúng ta tin Chúa Phục Sinh vẫn luôn ở với ta, bây giờ và mãi mãi. Chúng ta cùng với Phao-lô thốt lên lời này: "Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì việc anh em tin cũng hão huyền" ( 1 Cr 15, 12 - 17 ). Chúa Giê-su đã sống lại, Ha-lê-lui-a, và Người đã "đi trước các môn đệ tới Ga-li-lê" ( Mc 16, 7 ).

Chúa Phục Sinh vẫn đợi mọi người chúng ta ở mọi thời, mọi nơi và Người truyền lệnh cho các môn đệ và mọi người: "Hãy loan truyền Tin Mừng Phục Sinh". Chúa Phục Sinh hứa: "Và này Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế" ( Mt 28, 20 ). Hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh nhờ ánh sáng Phục Sinh tràn ngập tâm hồn. Ha-lê-lui-a.

CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Chúa nhật Phục sinh, Giáo hội mời gọi con cái mình khám phá ngôi mộ trống để rồi cùng nhau tuyên xưng niềm tin CHÚA KYTÔ PHỤC SINH và ra đi loan báo niềm tin đó cho muôn dân.

Tin mừng hôm nay ghi lại việc Maria Macđala bất ngờ phát hiện tảng đá dùng để lấp ngôi mộ Chúa đã được ai đó lăn ra. Bà vô cùng lo lắng, vội vã chạy về báo cho các môn đệ của Người. Nhìn thấy hiện tượng tảng đá không còn nguyên như cũ, bà nghĩ rằng đã có ai đó đem xác Chúa của bà đi. Bà tìm gặp Phêrô và Gioan và mong muốn các ông sớm tìm ra thủ phạm lấy xác Thầy mà giờ đây bà không biết họ Người để đâu. Maria Macđala chưa hiểu đàng sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm siêu phàm. Vì thế, bà cùng với hai môn đệ vội vã chạy đi kiếm tìm...

Chạy đến mộ trước bởi sức trai trẻ, người môn đệ Chúa yêu ngoài việc thấy những gì Maria Macđala nói, ông còn phát hiện thêm những hiện tượng bất thường. Ông thấy những băng vải còn đó. Nghĩa là không bị ai đó mang đi, và như thế, chưa hẳn xác thầy đã bị đánh cắp như bà Maria nói. Sau đó không lâu, Phêrô còn phát hiện ra rằng tất cả các băng vải, khăn che đầu được xếp lại, để riêng ra từng nơi cách gọn gàng. Những hiện tượng này là những lý chứng để có thể trả lời cho những nghi ngờ của Maria trước đó là vô căn cứ. Bởi một điều dễ hiểu là nếu có âm mưu trộm xác, kẻ trộm sẽ lợi dụng thời khắc lính canh thiếp ngủ- rất ngắn ngủi, thì không thể nào thoải mái sắp xếp các băng vải liệm cách gọn gàng như thế được. Những phát hiện như thế tuy không phải là những bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa, nhưng nó lại là những dấu chỉ chứa đựng sự nhiệm mầu.

Người môn đệ Chúa yêu cuối cùng cũng đi vào bên trong ngôi mộ, ông đã nhìn thấy tất cả những gì Maria và Phêrô đã thấy. Chúng ta thấy ở đây là, cùng một hiện tượng, nhưng cách suy nghĩ, cánh nhìn nhận vấn đề của Gioan khác xa với Phêrô và Maria.

Maria Macđala nghĩ rằng có kẻ ăn cắp xác Chúa. Bà nghi ngờ tất cả. Bà nghĩ đó có thể là những kẻ thù nghịch với Chúa trong vụ án vừa qua, nay vứt xác đi cho bỏ ghét; mà cũng có thể là người làm vườn lắm chứ?...

Còn Phêrô, ông nhìn thấy tất cả nhưng không bình luận. Phêrô cẩn trọng và dè dặt trước hiện tượng có tính chất nhậy cảm. Một mặt chúng ta có thể hiểu rằng ở cương vị lãnh đạo, Phêrô cần phải có thái độ cẩn trọng trong mọi hoạt động; nhưng mặt khác, dựa vào kinh thánh, chúng ta biết lý do Phêrô không bình phẩm là vì ông chưa hiểu "theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết". Con người của Phêrô là thế. Chưa biết thì im lặng chờ đợi. Không vội vã suy diễn, cũng không hấp tấp quy kết, nhận xét này nọ.

Gioan đi vào mộ. Ông thấy và ông tin. Thông qua ngôi mộ trống và những vị trí gọn gàng của các băng vải liệm, Gioan đã đọc ra dấu chỉ về những thực tại siêu nhiên bằng con mắt đức tin. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề một cách logic và biện chứng của Gioan. Cùng một lúc, Gioan đã thâu gom những hiện tượng hữu hình, ông lượng định vấn đề để rồi đưa đến kết luận- dù không nói ra, một cách khoa học. Niềm tin của Gioan không hời hợt, ướt át, mị dân. Niềm tin đó dựa trên sự soi sáng của lý trí và tình yêu. Thế nên, với ông, xác của Thầy chả có ai lấy đi cả. Cái chết đã thất bại. Nó đã bị ánh sáng Phục sinh tướt đoạt. Niềm tin ban sơ này của ông sẽ dần dần được chính Đấng Phục sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện.

Mừng lễ Chúa Phục sinh, phải chăng là dịp nhắc nhớ chúng ta đào sâu thêm niềm tin của chúng ta vào Đấng Phục sinh. Hơn bao giờ hết, lời của Thánh Phaolô : "Nếu Đức Kytô đã không phục sinh, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả niềm tin của anh em cũng trống rỗng" (1 Cr 15, 14) vẫn còn nguyên giá trị. Xin cho mỗi người chúng ta không ngừng ra đi, loan báo tin mừng Phục sinh cho thế giới này. Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa Sống lại cho tới khi Chúa lại đến.

NIỀM TIN PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Có một cuốn phim, tựa đề là "Đức Giêsu Kitô", đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.

Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng ? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì "chết là hết", đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài : tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra : Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.

Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.

Tuy nhiên biến cố Phục Sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó, Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, trò chuyện, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài : từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ : từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh, tất cả đều có thật.

Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.

Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Kitô Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.

HÃY VUI LÊN
Ga 20, 1 - 9
Sr Mai An Linh, OP

Đây là đại ý của phụng vụ Lời Chúa, Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay, sứ thần và chính Đức Giêsu đã mời gọicác bà, những người đi thăm mộ trong lúc trời hừng sáng và mời gọi mọi người Kitô hữu chúng ta nữa " Hãy vui lên Chúa đã sống lại rồi".

Đối với các bà, một tâm trạng bấn lọan : Mới ngày nào đây Thầy mình được khen ngợi " Xưa nay chưa hề có ai nói năng như ông này"(Jn.7,46), " ông nói như Đấng có uy quyền"(Mt.7,29) và được tung hô " hoan hô Đấng nhân danh Chúa mà đến"(Mt.21,9). Thế mà nay họ lại giết treo trên cây Thập Gía và được chôn trong mộ đá. Tâm hồn các bà là cả một bể sầu khôn nguôi, chẳng ai có thể chia sẻ, ủi an, lòng các bà nặng trĩu như phiến đá che mộ kia.

Nhưng "một người xuất hiện ngồi trên phiến đá và lên tiếng : các bà đừng sợ" (Mt.28,5), lời trấn an tưởng chừng như một cánh tay che chở, nhưng thực ra "các bà vẫn sợ hãi"(Mt.28,8a), sự buồn rầu trở thành nỗi sợ hãi, lo lắng, nhưng sự sợ hãi này khác với lính canh mồ. Thật vậy,

Tác giả nhằm đề cao sự tương phản giữa phản ứng của quân canh mồ và của các bà. Quyền năng của Thiên Chúa biểu hiện gây ra nơi mọi người cảm tính sợ hãi. Nhưng nếu sự sợ hãi ấy không đưa đến đức tin, thì nó làm cho con người nên bất động "lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết"(Mt.28,4). Trái lại, nếu biết kiếm tìm Thiên Chúa, sự sợ hãi ấy sẽ chuyển đổi thành niềm vui và hối thúc con người phấn khởi hành động và chúng ta đã thấy sự ấy nơi hai hạng người trên.

Kìa lời nói lại vang lên " tôi biết các bà đi tìm Đức Giêsu chịu đóng đinh, Người không còn đây nữa, vì Người đã chỗi dậy"(Mt.28,5b). Lời loan báo vỡ òa như thác nước đổ xuống, như phiến đá nặng ngàn cân kia đã được lăn ra khỏi cửa mồ và người loan báo đang ngồi trên đó " hãy về báo tin cho môn đệ, Người đã chỗi dậy từ cõi chết, hẹn gặp ở Galilê "(Mt.28,7). Tỉnh hay mơ đây ? Các bà " vừa sợ vừa rất đỗi vui mừng"(Mt.28, 8a).

Sợ vì phải chạm trán, tiếp xúc và chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ. Mừng vì biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại, biết chắc rằng sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ là dấu chỉ cứu thóat cho các bà. Các bà vui niềm vui của các nhà đạo sĩ khi thấy lại ngôi sao lạ dẫn đường(x.Mt.2,10), của các mục đồng khi được tin báo Đấng Cứu Thế đã sinh ra(x.Lc.2,10).

Đúng là hãy vui lên đừng sợ, vui lên cho những tâm hồn biết cất đi, lấy đi tảng đá ích kỷ, kiêu ngạo khỏi lòng mình để Đức Giêsu có thể Phục Sinh nơi tâm hồn họ và hăm hở loan báo Tin Mừng như những phụ nữ hôm nay " các bà chạy đi báo tin"(Mt.28,9), chạy chứ không phải đi vì là Tin Mừng vĩ đại, không thể chần chừ, không thể lần lữa rầy mai, ngay nhịp độ của trình thuật cũng cho thấy là chạy. Sau đó chính Chúa Giêsu cũng đã hiện ra và cũng chào các bà : đừng sợ, hãy vui lên (x.Mt.28,10). Cuộc gặp gỡ tuy đơn sơ nhưng đầy cảm động với lời chào bầy tỏ niềm hân hoan cánh chung (x.Xp.3,14; Ge.2,21; Za.9,9)

Phản ứng của các bà là nhào đến ôm chân Chúa Giêsu tỏ lòng kính tôn, yêu mến Ngài, hành động tôn kính mang sắc thái long trọng lạ thường, hơn hẳn các lời khác được mô tả trong Tin Mừng (x.Mt.8,2; 9,18; 14,33), cho thấy tâm tình của các bà đối với Chúa Giêsu mà các bà gặp lại, một cách đầy thích thú. Rồi Chúa Giêsu cũng lập lại lệnh truyền mà vị thiên sứ đã ra cho các bà " hãy đi báo cho anh em Thầy để họ đến Galilê và sẽ gặp Thầy ở đó"(Mt.28,10). Dù các tông đồ đã phản bội và và chối từ Chúa Giêsu, Ngài cũng vẫn tha thứ hết cho họ, Ngài vẫn còn gọi họ là các anh em của Ngài, một khi Ngài đã vào chốn vinh quang cũng thế, tội lỗi của chúng ta nhiều, nhưng cũng được tha thứ hết trong đêm cực thánh này và sẽ được Ngài gọi là anh em. Qua câu này, Đấng Phục Sinh diễn tả tình thân mật với các môn đệ của Ngài, Ngài tha thứ lầm lỗi mà họ đã phạm trong giờ thương khó của Ngài.

Hiệp với niềm vui của tòan thể Hội Thánh " Hãy vui lên", người Kitô hữu chúng ta tham dự vào đêm Phục Sinh bằng cả niềm vui của mình : vui mừng vì được cứu độ, vui mừng trước sự can thiệp vô tiền khóang hậu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, nhất là vui mừng vì được chung phần vinh quang của Đức Kitô mà phần bảo đảm nhận được qua Bí Tích Thánh Tẩy.

Lòng trung thành của các bà được bù đắp : vì họ đã theo Chúa trên Núi Sọ, đã chứng kiến giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu, nên họ được phúc là chứng nhân đầu tiên của Phục Sinh...và trở thành sứ giả loan tin vui Phục Sinh cho mọi người. Chính nhờ sứ mạng của một vài người nữ, mà Đấng Phục Sinh đã bắt đầu chinh phục cả thế giới. Vì "Thiên Chúa đã chọn những gì thế gian coi là yếu đuối để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ"(1Cr.1,27). Người Kitô hữu đích thực là người gieo rắc niềm vui Phục Sinh ra trong môi trường sống của mình ...

THẤY VÀ TIN
Ga 20, 1 - 9
Lm Trần Thanh Sơn

Không biết đây là lần thứ mấy, tôi và quý vị tham dự Thánh lễ nói chung và lễ Phục Sinh nói riêng? Có thể là 10, 20, 30, hay 40, 60... lần? Và cũng không ít hơn từng ấy lần, chúng ta đã nghe các đoạn Tin mừng nói về câu chuyện Đức Kitô Phục Sinh. Tóm tắt câu chuyện rất đơn giản. Trước đó, vào ngày thứ Sáu, ngày áp lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã bị hàng lãnh đạo Do Thái kết án và sau đó, Ngài đã bị đóng đinh và chết trên thập giá, rồi xác Ngài đã được mai táng trong huyệt đá. Và rồi vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, sau đại lễ Vượt Qua của người

Do Thái. Các người phụ nữ ra thăm mồ, vì quá thương nhớ một con người hiền lành đã bị kết oán oan ức, nhưng có lẽ cũng là để ướp lại xác Chúa bởi lẽ, hôm trước quá vội vã, họ làm chưa được cẩn thận.

Thế nhưng ra đến nơi, trước mắt họ chỉ còn lại một ngôi mộ trống, chỉ còn lại tấm khăn liệm và các dải băng nhỏ, nhưng xác Chúa thì không còn. Vâng, trước mắt chỉ là một ngôi mộ trống với tấm khăn liệm và những dây băng, nhưng chỉ cần từng ấy thôi cũng đủ để cho người môn đệ Chúa yêu tin rằng: Thầy mình đã Phục sinh. Tin mừng thuật lại: "Ông thấy và ông tin". Đây không phải là một niềm tin mơ hồ, chung chung, nhưng là một niềm xác tín thật sự của tông đồ Gioan. Một niềm tin đủ để ông giao trọn cuộc sống đời mình cho Đấng Phục Sinh.

Trở lại với bài đọc một được trích từ sách Công vụ Tông đồ, thuật lại bài giảng của thánh Phêrô cho viên bách quản Cornêliô. Chúng ta thấy: Trong lần rao giảng này, một lần nữa, thánh Phêrô loan báo cho viên bách quản cũng như cho mọi người chúng ta về con người của Đức Giêsu Kitô. Ngài đã thực sự sinh ra và sống như một con người tại miền đất Palestina. Ngài đã sống, rao giảng và làm nhiều phép lạ tại đất nước Do Thái. Ngài đã chết thật bởi bị đóng đinh trên thập giá, nhưng "ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại".

Thánh nhân còn cho biết rằng: sau khi sống lại, Đấng Phục Sinh cũng đã hiện ra với các tông đồ là "nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước". Và thánh nhân còn khẳng định "chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại". Nếu nhớ lại cảnh thánh Phêrô ba lần chối Thầy mình trước những người đầy tớ, trong sân nhà vị Thượng Tế hôm nào. Chắc hẳn chúng ta sẽ thấy lời rao giảng quả quyết này là một dấu chứng thực sự sống động cho niềm tin của thánh Phêrô vào Đấng Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đấng Phục Sinh đã làm cho thánh Phêrô trở nên một con người mới, một nhân chứng sống động về sự Phục Sinh của Đức Kitô. Niềm tin đó đã thúc đẩy thánh nhân vượt qua mọi nỗi sợ hãi, để lên đường rao giảng cho mọi người, kể cả gia đình viên bách quản Cornêliô là những người ngoài Do thái. Và thánh nhân còn quả quyết: "Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ Danh Người mà được tha tội". Thế nhưng, chỉ nguyên một việc tuyên xưng đức tin nơi môi miệng hay việc tham dự các lễ nghi phụng vụ đông đảo, sầm uất thì chưa đủ bảo đảm cho đức tin của mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chớ đừng nghĩ đến những sự dưới đất". Như thế, một đức tin chân thật cần được minh chứng bằng chính cuộc sống thường ngày của mỗi người chúng ta.

Tới đây, tôi nhớ có một câu chuyện kể rằng: Một hôm có một người nông dân vô tình nhặt được một trứng đại bàng. Anh ta đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau, cả trứng gà lẫn trứng đại bàng đều nở. Tất cả đều đi theo gà mẹ để kiếm ăn. Thế rồi, ngày tháng dần trôi, bầy gà con và cả đại bàng cùng lớn lên bên chân gà mẹ, cạnh đống rơm, bụi cỏ. Thỉnh thoảng, đại bàng cũng thấy hình như mình có một cái gì đó khác với các anh em gà của mình, nhưng chú cũng không biết rõ là cái gì.

Một hôm, đại bàng ta đang bới đất để tìm con giun, con dế như các con gà khác, bỗng nhiên bầu trời như tối sầm đi, các con gà đều chạy lại với nhau một chỗ. Ngước mắt lên bầu trời, chú thấy có một con chim gì thật to lớn, bay lượn trên bầu trời thật hiên ngang, hùng dũng. Chú liền lên tiếng hỏi, thì được trả lời: "Đó là đại bàng. Vua của các loài chim đó!". Tự nhiên, như một bản năng, chú cũng muốn vươn đôi cánh của mình để cất cánh bay lên bầu trời tự do như những con đại bàng kia, nhưng lập tức, những con gà khác liền nói với chú: "Chú mày là gà, chúng tao cũng là gà. Không bay được đâu". Và thế là chú đại bàng con lại tiếp tục, bới đất kiếm ăn và rồi chết trong thân phận của một con gà.

Nghe xong câu chuyện, có lẽ mỗi người chúng ta đều nghĩ tội nghiệp cho chú đại bàng con. Chú là đại bàng, nhưng không biết bay cao, bay xa như đại bàng, để rồi sống và chết như một con gà tầm thường.

Thế nhưng có thể trong cuộc sống hàng ngày, tôi và quý OBACE vẫn đang sống như chú đại bàng kia. Chúng ta đã được nhận lãnh bí tích Thánh Tẩy, được vinh dự trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được mời gọi sống "thánh thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh" (Mt 4, 48), vậy mà chúng ta vẫn chưa hướng được lên trời cao. Chúng ta vẫn cứ mãi chạy theo những cái "dưới đất", tức là những lợi lộc trước mắt. Chúng ta chưa đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua những rào cản của thành kiến, dư luận để tự mình "bay" đến với những anh chị em đang bị đẩy ra bên lề xã hội, những người bệnh tật, nghèo hèn.

Chúng ta cũng chưa thể nói rằng mình tin vào Đấng Phục Sinh, nếu sau khi rời khỏi ngôi thánh đường này trở về nhà, chúng ta lại tiếp tục nói hành, nói xấu anh chị em mình.

Chúng ta cũng không thể nói rằng tôi tin vào Đấng Phục Sinh, nếu trong cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta vẫn tiếp tục sống giả dối, lừa gạt lẫn nhau; vẫn tiếp tục một cuộc sống tranh quyền, đoạt lợi bằng mọi thủ đoạn.

Và nếu trong cuộc sống của mình, chúng ta còn có những suy nghĩ phân biệt người sang, kẻ hèn; chúng ta còn phân biệt giữa người tới trước và những anh chị em mới gia nhập cộng đoàn chúng ta sau này, thì chắc chắn, lối sống đó không phải là một dấu hiệu của một niềm tin chân thật vào Đấng Phục Sinh, bởi lẽ, với cuộc Vượt Qua của mình, Đấng Phục Sinh đã phá tan mọi rào cản về ngôn ngữ, chủng tộc, phá tan sự ngăn cách giữa người Do Thái và "dân ngoại", để đôi bên được trở nên một (x. Ep 2, 14;
Dt10, 20).

Mừng đại lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta cùng hiệp ý xin Thánh Thần của Đấng Phục Sinh ngự đến biến đổi tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta thực sự trở nên những con người mới, những con người biết "tìm những sự trên trời", chớ không chỉ là "những sự dưới đất". Nhờ đó, khi "Đức Kitô là sự sống chúng ta xuất hiện, bấy giờ, chúng ta cũng sẽ được xuất hiện với Người trong vinh quang". Amen.

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI
Ga 20, 1 - 9
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Suy đi nghĩ lại tôi vẫn cảm thấy câu nói của bà cụ già trong phim Sám Hối trong thời Liên Xô cũ vẫn còn giúp tôi tâm đắc. Bà cụ nói:" Nếu con đường không dẫn tới nhà thờ thì con đường không có giá trị gì đối với cụ". Tôi lại nẩy ra một ý :" nếu con đường không dẫn tới căn phòng Tiệc Ly mà Chúa Giêsu và các môn đệ dùng bữa Vượt Qua cuối cùng và nếu con đường không dẫn tới ngôi một trống, nơi Chúa Giêsu đã khải hoàn sống lại thì quả thực tôi chẳng cần suy nghĩ gì.

TIN MỪNG THUẬT LẠI:
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần có 3 người tất bật chạy ra mộ. Bà Maria Mađalêna, ông Phêrô và Gioan. Tất cả đều đến mộ để mong gặp thấy Chúa còn chôn trong mộ. Đây là định luật của đời sống: con người có sinh, có tử. Hình ảnh này vẫn là hình ảnh muôn đời của loài người, sinh ra và đi vào cõi chết. Thiên Chúa đã dựng nên con người bằng đất, con người sẽ phải trở về cát bụi. Tuy nhiên, sáng hôm nay tất cả đều khác, tất cả đều đổi mới. Phêrô, Gioan va Mađalêna đi tìm một người chết nhưng họ lại gặp một người sống. Họ vào trong mộ, khăn liệm xác còn đó, dây băng nhỏ cũng còn đây. Chiếc khăn che đầu để riêng một chỗ. Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Chúa bị đánh cắp lấy xác ư ? Không...Chúa đã sống lại thật và tất cả họ đều đã tin. Tất cả họ đều trở thành nhân chứng đầu tiên cho Chúa phục sinh. Chúa đã toàn thắng sự chết như Tin Mừng Mt 16, 21 đã viết:" Ngài sẽ phải lên Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thương tế, phải bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại". Phêrô và các tông đồ đều là chứng nhân vì họ đã tin. Hội Thánh cũng trở thành nhân chứng và gieo rắc niềm tin phục sinh cho nhiều người.

MẦU NHIỆM PHỤC SINH :
Chúa sống lại rồi.Alléluia. Đây là niềm tin của Hội Thánh, và là căn bản của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô đã viết:" Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ trở nên vô ích, và như thế chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi"( 1 Co 15, 17 ). Nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của chúng ta thật vô ích, hão huyền. Chúng ta cảm tạ ơn Chúa vì Chúa đã sống lại. Chúa có quyền trên sự sống và sự chết. Thánh Phaolô cũng viết:" Bởi vì nếu bạn tuyên xưng nơi miệng bạn : Giêsu là Chúa, và nếu bạn tin trong lòng bạn: Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết, bạn sẽ được cứu"( Rm 10,9 ). Chúa đã sống lại. Các tông đồ, các người phụ nữ Chúa cho gặp đầu tiên đã làm chứng. Do đó, chúng ta từng kẻ tin trong Giáo Hội cũng mau mau làm chứng. Việc đồn đoán của bọn lính canh và tiền mua chuộc của các quan chức lúc đó về xác Chúa Giêsu bị đánh cắp trở thành trò lừa bịp mọi người. Chúa đã sống lại, ngôi mộ trống chứng minh Chúa sống lại vì Gioan làm chứng, vì Phêrô và các tông đồlà chứng nhân. Chúa sống lại đã "đi trước các môn đồ tới Galilê " ( Mc 16, 7 ). Ngày nay Chúa vẫn hằng gặp chúng ta nơi nhà chầu, nơi anh chị em, nơi những người nghèo khổ. Vâng chúng ta không được gặp chính Ngài bằng xương bằng thịt như các môn đồ xưa ở Galilê nhưng chúng ta vẫn được thấy Ngài. Chúa đã sống lại là một sự thật. Mầu nhiệm của đức tin và chỉ có mình Chúa Giêsu mới có quyền làm được như lời Ngài tiên báo.

Alléluia Chúa đã phục sinh. Hội Thánh hãy cùng các tông đồ mau mau đi loan truyền mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa đã nói:" Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống ". Chúa đã sống lại là niềm hy vọng, cậy trông của chúng ta:" Khi Chúa Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang "( Col 3, 4 ). Con đường đã dẫn tôi tới ngôi mộ trống và như Gioan, Phêrô và maria Madalêna, tôi đã tin, tôi đã làm chứng.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con mau mắn loan truyền Tin Mừng phục sinh cho nhiều người, cho mọi người. Amen.

NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúa Kitô đã phục sinh. Đó là niềm vui của chúng ta. Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.

Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ. Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận. Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn. Sau đó lính canh đi loan tin rằng : Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa. Ai cũng biết đó là tin giả. Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác. Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói : Lính canh ngủ hay thức. Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.

Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ. Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa. Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa. Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì. Gioan vào sau. Ong đã thấy và đã tin. Ong thấy gì? Ong thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ. Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt. Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa. Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó. Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ. Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.

Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người. Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín. Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn. Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus. Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng. Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô. Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa. Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt. Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất. Và có tiếng từ trời phán bảo : "Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta". Hoảng sợ Saolê thưa : "Thưa ngài, ngài là ai". Tiếng từ trời trả lời : "Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt". Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng. Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt. Đang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai. Đang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Đang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường. Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ. Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.

Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình. Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên. Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.

Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin. Đó là sự vững chắc của Giáo hội. Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta. Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta. Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa. Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch. Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa. Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.

Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao. Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
Ga 20, 1 - 9
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Có nhiều lần khi dâng lễ Phục Sinh cho anh chị em Dân tộc Kơho, tôi đã xác tín và nói to điều này với tất cả những anh chị em Dân tộc đang có mặt mừng lễ Phục Sinh:" Nếu chúng ta theo Đạo Công Giáo, Chúa chúng ta Đức Kitô chết mà không sống lại thì quả thực Đạo chúng ta đang theo không có giá trị gì ! Và tôi giải thích tiếp, không có một Vị Lãnh Đạo, Sáng Lập Đạo nào trên thế giới lại nói: chết rồi ba ngày sẽ sống lại. Riêng Chúa Giêsu chúng ta đang tin, đang tôn thờ đã chết và đã sống lại thật đúng như lời Ngài nói và rồi cả nhà thờ vỗ tay vang lên. Alléluia, Chúa đã sống lại thật. Alléluia ".

Tin Mừng hôm nay viết về vị tông đồ Gioan như sau: " Ông đã thấy và Ông đã tin " (Ga 20, 8b ). Gioan đã thấy ngôi mộ t và đã tin Chúa đã sống lại thật sau khi Ngài được an táng ba ngày trong mồ. Thánh Gioan đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô phục sinh. Đó là niềm tin cơ bản nhất của người Kitô hữu. Người Dân tộc Kơho mà tôi đã có dịp phục vụ họ nhiều năm. Theo tôi nhận xét, họ có đức tin tuyệt vời. Đức tin không phải tự nhắm mắt lại để tin những điều người khác nói, nhưng đức tin của họ phát xuất tự đáy cõi lòng và khi đã tin, họ tin rất chân thật, sâu xa. Sở dĩ họ có lòng tin và đức tin sâu xa như thế bởi vì niềm tin của họ không so đo, họ không đòi phải chứng minh như những người trí thức, như những nhà khoa học. Đức tin của họ phát xuất từ cõi thâm sâu của con tim. Thực tế, họ tin vào Chúa phục sinh như Kinh Thánh và Huấn Quyền Hội Thánh dạy họ, nhưng trên hết mọi sự là do lòng đạo đức của họ.

Chúa đã sống lại thật là Tin Mừng Phục Sinh lớn lao cho cả nhân loại. Đêm vọng Phục Sinh nhân loại cử hành lại việc Chúa Giêsu chết và sống lại. Ngày Chúa nhật Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu chiêm ngắm Chúa Giêsu sống lại, Chúa Giêsu Phục Sinh. Thánh Gioan trong Ga 20, 1-9 đã dẫn mọi Kitô hữu cùng chiêm ngắm ngôi mộ trống với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh Phêrô giảng cho mọi người nghe lời tuyên xưng Chúa sống lại...Và khi linh mục rảy nước thánh, ca đoàn hát " Tôi đã nhìn thấy nước chảy vọt ra từ trái tim Chúa Kitô, Alléluia ! Chúa Kitô chiến thắng đã trở về, tỏ cho thấy vết thương nơi cạnh sườn Ngài. Alléluia ". Còn Kinh tiền tụng lại hát vang: " Đám người được rửa tội, rực rỡ trong niềm vui Phục sinh, đang nhảy mừng trên khắp mặt đất ".

Niềm vui Phục sinh phải được lan tỏa nơi mọi người. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn đầy ắp niềm vui Phục sinh. Chúa Phục sinh hiện diện trong các mầu nhiệm: Ngài hiện diện trong anh sáng, trong các Lời Kinh Thánh và nay Chúa Phục sinh hiện diện trong các Bí tích như Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể. Chúa hiện diện hoàn hảo trong Mình Máu Chúa Kitô. Người Kitô hữu phải sống Tin Mừng Phục Sinh trong từng biến cố cuộc đời: vui, buồn, thử thách, tất cả phải dậy lên niềm vui Phục Sinh. Anh nến phục sinh mà mỗi người Kitô hữu đã thắp lên từ cây nến mẹ Phục sinh phải chiếu tỏa luôn mãi cho mình và đến với mọi người.

Niềm vui Phục sinh phải được mọi Kitô hữu tỏa sáng để làm chứng cho Chúa sống lại. Phục sinh là sống chia sẻ, bác ái, yêu thương.Niềm vui Phục sinh là đẩy lùi những đam mê, xác thịt để sống chính trực công chính.

Chúng ta sẽ làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh khi chúng ta luôn sống đức tin sâu xa và tin tưởng như thánh Gioan: " Tôi đã thấy và tôi đã tin " ( Ga 20, 8 ba ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đánh bại thần chết, xin thương cứu độ chúng con. Amen.

CHÚA KITÔ SỐNG LẠI, NỀN TẢNG CỦA NIỀM TIN KITÔ GIÁO
Ga 20, 1 - 9
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong ba ngày qua, chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã chết thật và được mai táng trong mồ ba ngày. Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Kitô Phục Sinh. Đó là một biến cố gây ngạc nhiên, một sự kiện có một không hai trong lịch sử nhân loại và là nền tảng niềm tin của chúng ta.

Thánh Phaolô đã xác tín: "Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng". (1 Cr 15, 14).

Niềm tin của chúng ta căn bản là tin vào Đấng Phục sinh và chúng ta đặt hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa Hằng Sống (1Tm 4,10). Thánh Agustinô nói rằng: "Lòng tin của Kitô hữu là sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi tin Chúa Kitô đã chết thì không có gì là khó khăn cả, kẻ ngoại đạo cũng tin như vậy, và tất cả mọi người cũng đều tin như vậy. Nhưng điều cao cả hơn hết là tin Chúa Kitô đã sống lại thật".

Nhưng tin vào Chúa sống lại không phải là một việc dễ dàng, vì chúng ta vẫn thường nghi ngờ làm sao có chuyện người chết sống lại? Vậy đâu là bằng chứng và nền tảng của niềm tin vào Chúa Kitô đã phục Sinh?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể giải thích sự sống lại của Chúa Kitô như một biến cố lịch sử, nghĩa là biến cố Chúa sống lại là một biến cố đã thực sự xẩy ra.

Những sự kiện sau đây có thể chứng minh sự sống lại của Chúa là có thật:
- Trước hết, Chúa Giêsu đã Chết thật
Bốn Phúc Âm đã kể lại vụ án và cái chết của Chúa xảy ra ngoài thành Giêrusalem là có thật. Chúa đã chết cùng với hai tội nhân và được mai táng trong mồ. Sử gia ngoại giáo là Giusepus cũng nói đến cái chết của ông Giêsu. Nếu Chúa không chết thì làm sao có chuyện phục sinh.
- Sự cứng lòng tin của các tông đồ
Các tông đồ là những người có thật, những người đánh cá đã theo Chúa. Khi thấy Chúa bị bắt và đem đi giết, rồi nhìn thấy Chúa chết trên thập giá, các tông đồ nghĩ rằng mọi sự đã kết thúc và ai nấy bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lúc đầu các ông không hề chờ đợi một sự sống lại, họ có tin đâu! Chúa Giêsu phải trách móc họ: "Ôi những kẻ kém lòng tin!" Họ chính là những người lúc đầu có quan niệm là bị Chúa lừa gạt. Nhưng sau đó họ đã tin là có thật. Nếu Chúa không sống lại thì làm sao họ có thể chịu bị bách hại và chịu chết vì Chúa được? Họ được lợi lộc gì khi phải chịu hy sinh như vậy?
- Ngôi Mộ trống cũng là một lời chứng về Chúa Phục Sinh
Chúa được chôn trong một ngôi mộ và việc Chúa chổi dậy và ra khỏi mồ cũng là một bằng chứng. Tin Mừng Luca kể các phụ nữ ra mộ Chúa. Các bà hoảng sợ vì không thấy xác Chúa mà thấy một người thanh niên ngồi bên phải nói rằng: Người đã chổi dậy rồi không còn đây nữa (Lc 16,6).
- Và một bằng chứng rất quan trọng đó là các lần hiện ra của Chúa Kitô phục Sinh
Chúa hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emaus. Rồi sau hiện ra với các tông đồ và nhiều người khác, Chúa cho Tôma xem các dấu đanh vì ông nghi ngờ.

Chứng tá xưa nhất về Chúa Kitô sống lại là của thánh Phaolô khi Ngài nói: "Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh, Người đã hiện ra với ông Kê Pha rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó phần đông hôm nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến Người cũng hiện ra với ông Giacôbê rồi với tất cả các Tông đồ. Sau hết Người cũng đã hiện ra với tôi là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non" (1Cor 15,3-8). Những lời này được viết ra vào năm 56 hay 57 sau C.N. Vì Phaolô đã gặp Đấng Phục sinh trên đường đi Đamas để bắt bớ giáo hội vào khoảng năm 35 sau C.N, nghĩa là khoảng 5 năm sau khi Chúa Kitô chết. Vì thế, đó là một chứng nhân lịch sử rất có giá trị.

Những cuộc hiện ra này chứng minh những điều mới mẻ về Chúa Kitô Phục Sinh. Ví dụ không phải ai cũng có thể thấy Chúa được nhưng chỉ những người Chúa cho thấy mới thấy Chúa được mà thôi. Thân thể Chúa hoàn toàn khác biệt với ngày trước. Chúa không còn lệ thuộc vào những định luật vật chất. Chúa đi ra vào mà cửa nhà vẫn đóng kín; cũng như Chúa hiện ra và biến đi.

Đây là những bằng chứng khách quan về sự sống lại của Chúa Kitô. Nhưng biến cố Chúa Phục sinh phải được đón nhận bằng đức tin mà thôi vì lý trí không thể lý giải được tại sao. Cho nên chúng ta cần phải có đức tin để hiểu biết và đón nhận biến cố quan trọng này.

Xin Chúa Kitô phục sinh ban cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và vững vàng để chúng ta sống và làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh trong thế giới hôm nay. Amen

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT
Ga 20, 1 - 9
Sr Rosemary Nhàn, MTGQN

Tin mừng của thánh Gioan hôm nay đã trình thuật lại cho chúng ta nghe về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và "ngôi mộ trống" của Ngài. Những sự kiện được mô tả trong bài Phúc âm thánh Gioan không chỉ muốn minh chứng cho chúng ta biết về sự sống lại của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng điều trọng yếu nhất chính là nền tảng cho lòng tin vào mầu nhiệm của sự sống lại.

Qua các dấu chỉ bên ngoài nơi mộ Chúa, Maria Mađalena, Phêrô, và người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến đã chắc chắn rằng Thầy mình đã sống lại. "Họ đã thấy và họ đã tin" (Ga 20.8). Điều này cho chúng ta thấy được niềm tin mãnh liệt của họ, mặc dầu trước đây họ vẫn chưa hiểu được Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết như thế nào !

Đức tin là một điều không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi một người Kitô hữu. Có đức tin là một điều cần thiết, tuyên xưng đức tin lại là một điều cần thiết hơn nữa. Trong niềm vui trọng đại của ngày Chúa Giêsu Phục sinh, chúng ta hãy cùng nhau dành một chút thời gian để suy niệm niềm tin yêu nầy.

Một buổi chiều nọ, một cô gái trẻ đang cùng bị giam cầm trong tù với nhiều người khác, đã kề miệng vào tai người bạn thì thầm: "Chị biết ngày mai là ngày gì không?" Rồi không đợi chị bạn trả lời, cô nói tiếp: "Mai là ngày lễ Phục Sinh". "Lễ Phục Sinh là lễ của niềm vui và hy vọng, nhưng trong tù, chúng ta đã héo úa và khô cằn, còn hy vọng gì?" Chị ta đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp. Bỗng tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí năng nề: "Chúa Kitô đã Phục Sinh". Chị quay lại thì kìa cô bạn mình đang cất tiếng tuyên xưng niềm tin, đồng thời chị thấy chiếu lên từ đôi mắt cô một ánh sáng long lanh diệu huyền. Cùng lúc ấy từ mọi phía của những phòng giam khác vọng lên tiếng đáp: "Người đã Phục Sinh thật!". Quá sửng sốt trước một biến cố không bao giờ xảy ra trong chốn này, các nhân viên trại giam trở nên bất động như tượng gỗ. Sau một lúc yên lặng, tiếng giày nặng nề tiến dần lại phòng giam của họ, cửa phòng mở tung. Hai nhân viên bước vào giận dữ, hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan, rồi hùng hổ túm lấy cô gái kéo xềnh xệch ra khỏi phòng. Thật là họa hiếm đối với một thiếu nữ đã tuyên xưng đức tin trong một hoàn cảnh quá ư là đặc biệt này. Niềm tin và sự can đảm của cô đã nhắc nhở mỗi người chúng ta phải cố gắng thể hiện đức tin của mình htrong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Hơn hết hãy nhìn vào mẫu gương sống động của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Ngài đã khiêm hạ để sống kiếp người như ta. Chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống. Ngài đã mặc cho cuộc sống một chân lý, một ý nghĩa, một hướng đi. Cuộc sống có ngọt ngào có đắng cay, có lao nhọc có nghỉ ngơi, có thành công có thất bại. Tất cả đều mang một ý nghĩa. Trong Đức Kitô, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, và cái chết sẽ trở thành khởi đầu cho cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin khơi dậy trong tâm hồn chúng con một niềm tin mãnh liệt như Maria Mađalene, Phêrô, Gioan và đặc biệt như cô thiếu nữ trong trại tù kia. Qua sự sống lại vinh hiển của Chúa, xin thương giúp mỗi người chúng con tin và hiểu rõ ý nghĩa giá trị của sự chết, để từ đó chúng con biết chiến đấu lướt thắng những khó khăn trở ngại, biết chế ngự đau khổ, biết tiêu diệt tội lỗi hầu phát huy một cuộc sống mới. Xin Ánh Sáng Phục Sinh soi cho mọi hành vi ngôn ngữ và biến tất cả thành động lực đóng góp vào cuộc sống hân hoan vui vẻ, vì nó là bước đầu cuộc sống Phục Sinh Vĩnh Cửu. Amen.

CHÚA KITÔ SỐNG LẠI
Ga 20, 1 - 9
Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Chúa Kitô đã chết và sống lại như các vị thần Osiris, Adonis trong các tôn giáo cổ xưa bên Ai Cập hoặc như Sơn Tinh, Thủy Tinh trong thần thoại Việt Nam? Không phải. Các vị thần nầy chỉ là huyền thoại biểu tượng cho sức sống của thiên nhiên, họ chết đi và sống lại mỗi năm theo mùa. Trái lại, Chúa Kitô là một nhân vật hiện thực, đã chết và sống lại chỉ một lần cho mãi mãi.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng Người đã chết thực, nhưng hình ảnh Người còn sống động trong tâm hồn tín hữu giống như văn hào Nguyễn Du đối với người Việt, hoặc công chúa Diana đối vối bao nhiêu người mộ mến cô? Không phải. Những người này đâu còn sống nữa, chỉ còn lại tác phẩm hoặc hình ảnh của họ thôi. Trái lại, Chúa Kitô đã chiến thắng cái chết và sống thực sự.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng sau khi Người chết, Thiên Chúa đã cho Người sống tiếp tục như trước kia, giống như phép lạ xảy ra cho chàng thanh niên ở Naim hoặc ông Ladarô? Không phải. Những người nầy do phép lạ được sống lại, nhưng vẫn mang thân phận con người và sau đó cũng đã chết. Trái lại, Chúa Kitô sống lại có một cuộc sống mới mà cái chết không còn quyền lực gì trên Người nữa.

Chúa Kitô sống lại. Phải chăng có nghĩa là linh hồn Chúa Kitô rời khỏi xác để về quê trời? Không phải. Bởi vì linh hồn mọi người, ít nhất là các người công chính, sau cái chết cũng đều được như thế. Trái lại, sự sống lại của Chúa Kitô hiển nhiên là một biến cố duy nhất, có một không hai.

Vậy Chúa Kitô sống lại có nghĩa là gì? Có nghĩa là Chúa Giêsu đã bị xử án và chịu tử hình, nay sống lại một cách mới mẻ qua tác động quyền năng của Thiên Chúa. Có nghĩa là biến cố này không chỉ ăn thua đến cá nhân Người: được Thiên Chúa cứu độ; nhưng hơn nữa, Phục Sinh là một biến cố liên quan đến tất cả chúng ta: Chúa Kitô đã chết cho chúng ta và Người đã sống lại đi trước chúng ta. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên Thánh Thần Người ngự trong chúng ta, tác động giúp chúng ta chỗi dậy sau những thất bại hoặc ngã lòng. Vì chúng ta thuộc về Người, cho nên sức sống của Người ở trong chúng ta, sức sống đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu như Người.

Nói đến niềm tin của Giáo Hội trước tiên là nói đến niềm tin của các vị tử đạo.

Trước tiên là những người đã chứng kiến cái chết của Chúa Kitô trên đồi Golgôta, trước kia họ đã đặt một niềm hy vọng lớn lao nơi Người và sau đó họ đã thất vọng khi Người chết: bà Mađalêna, ông Phêrô và các tông đồ. Sự biến đổi lớn lao trong niềm tin của họ đã xảy ra chính ở cuộc gặp gỡ Đấng Phục sinh: Người đến với họ mỗi người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.

Với những tông đồ nhút nhát sợ sệt, trốn tránh ở Giêrusalem, Người hiện ra cho họ xuyên qua cửa đóng kín;

với những ngư phủ đã trở lại nghề đánh cá cũ vùng Galilêa, Người hiện ra cho họ ở bờ hồ;
với hai môn đệ thất vọng rời Giêrusalem để đi về Emmau, Người hiện ra cho họ trên đường đi;
với người đàn bà đau buồn vì tang tóc, Người hiện ra cách riêng ở khi vườn gần mồ;
với Phaolô, kẻ tiếp tục bắt giết Người, Người hiện ra cho ông như là kẻ "đã yêu thương ông và hiến mạng cho ông". Đấng Phục Sinh đã gặp họ, và, do đó, họ đã biến đổi hoàn toàn.

Họ chứng minh niềm tin Phục sinh đó bằng lời nói, bằng lòng can đảm, bằng chính mạng sống họ, từ thuở đầu tiên, trải qua nhiều thế kỷ mãi cho đến những vị tử đạo ngày nay. Đó là niềm tin Giáo hội cử hành trong ngày lễ hôm nay.

Chúa Kitô luôn tiếp tục đến với mỗi người trong chúng ta, xin Người biến đổi chúng ta nên những chứng nhân của Người
.

TẠO VẬT MỚI TRONG CHÚA KITÔ
Ga 20, 1 - 9
Lm Trọng Thưởng, CMC

Tiến là một chàng sinh viên sắc sảo kiêu hãnh, tự cho mình vào loại trí thức cao, đã nghênh ngang tuyên bố với bạn bè rằng anh không tin bất cứ điều gì mà trí khôn anh không hiểu. Trung, một sinh viên khác sống ở nông trại gần trường, nói với Tiến:

- Hôm nay lái xe đến trường tôi chạy ngang qua một cánh đồng cỏ có đàn chiên đang ăn. Anh có tin không?
- Dĩ nhiên tôi tin.
- Và rồi cạnh đàn chiên có mấy con bê nhai cỏ xanh. Anh có tin không?
- Có chứ, sao không?
- Rồi chạy xuống dọc theo con đường có đàn ngỗng vừa ăn cỏ vừa kêu vang ầm ĩ. Anh có tin không?
- Có, tôi tin.
Trung hỏi tiếp:
- Vậy thì cỏ mà con cừu ăn trở thành len; cỏ mà con bê ăn trở thành lông bò; cỏ mà con ngỗng ăn biến thành lông chim. Anh có tin như vậy không?
Tiến trả lời:
- Anh nói đúng, tôi tin.
Trung hỏi vặn lại:
- Nhưng anh có hiểu tại sao không?
Lúc đó Tiến không còn giữ được vẻ cao ngạo, nhưng tỏ vẻ bối rối, trả lời:
- Ờ, không.
Trung khuyên nhủ:
- Anh biết không; nếu anh sống lâu trên đời, anh sẽ thấy rằng có rất nhiều điều anh tin mà anh không thể hiểu làm thế nào ra như vậy.

Mầu nhiệm Phục Sinh là điều chúng ta tin nhưng không thể giải nghĩa được vì nó vượt trên định luật tự nhiên, vượt trên lý lẽ của trí khôn. Tạo sao Chúa Kitô phải chết để mất công phải sống lại?

Mầu nhiệm Phục sinh chỉ cho ta thấy có một thế giới thần linh, mầu nhiệm mà mỗi người chúng ta đều mang mầm mống; có mầm sự sống không bao giờ chấm dứt chứa đựng trong mỗi người. Cuộc sống ở trần gian này không trọn vẹn được khát vọng của con người. Người ta mong hạnh phúc nhưng chỉ thấy bất hạnh, thèm khát, thiếu thốn dù là những người giầu sang. Người ta tìm cách để sống lâu, sống mãi nhưng cuối cùng cũng phải chết. Con người mang trong mình mầm sống hạnh phúc, mầm sống không bao giờ chấm dứt, nhưng thực tế khiến người ta thất vọng.

Qua mầu nhiệm Phục Sinh, Chúa Kitô đem lại cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã chịu chết để được sống lại, sống mãi mãi và sống hạnh phúc. Thánh Phaolô đã gọi Chúa Kitô là trưởng tử của một nòi giống tạo vật mới. Ngài là người đầu tiên chịu chết và được sống lại, để nhờ Ngài mà chúng ta đã được sống lại như Ngài, trở nên những tạo vật mới trong Ngài. Câu mở đầu bài Phúc âm miêu tả cho chúng ta cảnh huy hoàng của ánh bình minh ngày Phục Sinh: "Sau ngày Sabbat, khi ngày trong tuần vừa tảng sáng..." Sách Sáng Thế Ký đã miêu tả ngày đầu tiên Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng rồi phân rẽ ánh sáng và bóng thành ngày và đêm. Ca vịnh "Mừng Vui Lên" được Giáo Hội cất lên trong đêm Phục Sinh cũng nhắc đến cuộc giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng. Chúa Kitô là vị tướng lãnh sự sáng đã chiến thắng bóng tối sự chết và tội lỗi. Ánh ban mai ngày Phục Sinh chính là khởi điểm của công cuộc tạo dựng mới; một nòi giống tạo vật mới đã xuất hiện mà Chúa Kitô chính là Người Anh Trưởng của đàn em đông đúc. Nơi Chúa Kitô mầm sự sống hạnh phúc không bao giờ chấm dứt trong bản tính nhân loại được triển nở thành cây và đơm bông kết trái.

Mầm sự sống đời đời trong mỗi người chúng ta có thể bị giết chết vì vô tình, hờ hững đưa mình vào những hoàn cảnh sống bệnh hoạn, bị trói buộc bởi đam mê xác thịt, của cải, danh vọng... Hình ảnh Chúa Kitô Phục sinh nhắc nhở, kêu mời chúng ta hãy dõi nhìn vào tâm hồn mình để nhìn thấy phẩm giá cao quí của người con của Thiên Chúa được kêu gọi sống đời đời trong hạnh phúc với Ngài. Nơi mỗi người chúng ta có mầm sống vĩnh cửu cần được nuôi dưỡng bằng ơn thánh qua các bí tích, và đời sống cầu nguyện; đồng thời nó cũng cần được che chở khỏi biết bao ảnh hưởng bệnh hoạn giữa thế giới ngày nay, như những cơn bão tố đe dọa giết chết nó.

NIỀM TIN KHƠI NGUỒN ƠN PHÚC
Ga 20, 1 - 9
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

Báo chí Việt Nam từng đưa tin về tình trạng một số nghĩa trang tại Bình Thuận bị kẻ gian đào bới, và hài cốt của nhiều người bị mất cắp. Tìm hiểu lý do đào bới, người ta được biết: nào là để giả hài cốt Mỹ rồi bán cho những ai muốn đi ra nước ngoài, nào là đòi bà con họ hàng người chết chuộc lại hài cốt, nào là chôn dấu đâu đó rồi giả làm thầy bói chỉ cho người có thân nhân mất tích tìm tới đào lên. Lý do nào cũng đều chung một mục đích: kiếm tiền.

Hôm nay, sau khi đọc lại bài Tin mừng Phụs Sinh, tôi tự hỏi đây có phải là một mẩu tin như bao mẩu tin khác? Phải chăng cũng có một cuộc đánh cắp xác chết khiến cho thân nhân thăm mộ lo lắng hoang mang?

Xác Đức Giêsu đã bị đánh cắp. Đây chính là tin đồn mà các thượng tế cùng hàng niên trưởng đã tung ra. Số là sau khi được quân canh cửa mồ về báo cho biết những gì đã xảy đến, họ liền cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh cứ nói: đang đêm các môn đệ của hắn đã đến trộm xác lúc chúng tôi đang ngu" (Mt 28:11-13).

Nhưng nếu quân canh ngủ gục, làm sao lại biết những người trộm xác là môn đệ Đức Giêsu? Canh phòng và biết người ăn trộm sao lại không ra tay ngăn lại?

Thành ra có một sự hàm hồ trong mẩu tin "trộm xác" này. Người tung tin là để không bị mất mặt, còn kẻ phao tin là để thu được một món tiền lớn.

Thế rồi đang khi quân canh chạy về trình báo và thi hành tất cả những gì các thượng tế và hàng niên trưởng căn dặn, một trong những người theo Chúa Giêsu lúc Ngài còn sống là Maria Mađalêna đã ra viếng xác Chúa. Nàng sững sờ khi thấy mồ trống. Chung quanh chẳng có một bóng người. Hoảng hốt, nàng chạy bay về báo cho Phêrô và Gioan: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu."

Nghe thế, hai ông lập tức chạy phóng ra mồ. Phêrô bước vào huyệt trước và thấy các dải băng còn nguyên; khăn liệm quấn đầu để giữ quai hàm theo tập quán tẩm liệm Do thái vẫn còn đó. Không có dấu hiệu gì là trộm cắp hay bàn tay bên ngoài nhúng vào. Phêrô băn khoăn suy đoán nhưng vẫn không hiểu gì.

Song khi Gioan bước vào, ông đã thấy và tin.

Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của "người môn đệ Chúa Giêsu yêu" vào sự Phục sinh của Thầy mình. Tuy cô Maria Mađalêna là người đầu tiên loan báo biến cố mồ trống cho các môn đệ, nhưng nhận định của nàng cũng chỉ theo kiểu con người: "Ai đã lấy mất xác Thầy rồi." Còn vị thủ lãnh tông đồ Phêrô tuy chứng kiến tường tận cảnh trí mồ trống nhưng lúc ấy cũng "chưa hiểu gì." Chỉ riêng Gioan, qua những dấu chỉ bên ngoài của mồ trống và các dải khăn liệm, đã tiến đến một khám phá lớn lao: "Theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết". Và ông đã tuyên xưng niềm tin sống lại đó.

Nhưng thử hỏi sự sống lại của Chúa Giêsu có khác với bao sự Phục sinh được nhắc đến trong Thánh kinh không? Vì trong thực tế, Lagiarô em của Matta và Maria cũng sống lại, con gái ông Giairô cũng sống lại, con trai bà góa thành Naim cũng sống lại, thế thì sự sống lại của Chúa Giêsu có gì đáng cho Giáo hội vui mừng công bố?

Lagiarô, con gái ông Zairô, con trai của bà góa thành Naim, tất cả đã sống lại, nhưng cũng chỉ sống lại trong sự giới hạn của thời gian và không gian, để rồi mấy mươi năm sau lại phải nằm xuống trong sự chết. Còn Đức Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, và là Tình Yêu đó sống lại "để không bao giờ chết nữa; sư chết không còn làm chủ được Người nữa" (Rm 6,9). Như thế các chân lý và giá trị yêu thương mà Ngài mang đến cho nhân loại đã được Phục sinh để tồn tại đến muôn đời.

Và Gioan, người môn đệ Đức Giêsu yêu, đã nhận ra điều đó bằng đôi mắt đức tin. Qua Lời Chúa và các dấu chỉ bên ngoài, ông đã khám phá nội dung sâu xa ẩn chứa bên trong: Chúa đã phục sinh. Đây là cao điểm của niềm tin và lòng mến. Yêu thương làm tăng trưởng niềm tin, và tin nhau kiên vững tình yêu. Chắc hẳn nhờ lòng yêu mến Chúa Giêsu cách đặc biệt, Gioan đã nhạy bén với những dấu chỉ đức tin. Khi mà mồ trống, dải băng làm cho Phêrô khó hiểu và hoang mang, thì tình yêu đã khai mở niềm tin sống lại nơi Gioan, dù ông chưa thấy Chúa.

Như thế, Gioan không những khẳng định mình là người được Chúa yêu, song còn nhận mình là người có phúc. Bởi như lời tuyên bố sau này của Chúa Giêsu: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" (Gn 20,29), Gioan đã trở thành người tin và có phúc sau lúc bước vào mồ, dù khi đó Chúa Phục sinh chưa hiện ra.

Chính Gioan muốn thông truyền lại ơn phúc lớn lao đó cho nhân loại. Tin vào Đức Giêsu Phục sinh là khởi điểm đưa con người từ tuyệt vọng qua hy vọng, từ u sầu qua hân hoan, và từ sự chết qua sự sống. Có niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, không khổ đau gian lao nào có thể khuất phục con người, bởi như thánh Phaolô xác quyết: "Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị" (2 Tim 2,11). Và sẽ đến một ngày "Đức Kitô, sự sống của ta hiện tỏ, và khi ấy tất cả chúng ta sẽ được tỏ hiện làm một với Ngài trong vinh quang" (Col 3,4).

NIỀM TIN VÀO ĐẤNG PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
Sr. Inê

Một em bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu ?
Người mẹ đáp: -Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu.
Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất.
Em bé ngạc nhiên hỏi mẹ: -Khi mẹ mất vật gì tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ?
Bà mẹ đáp: -Phải.
nói tiếp: -Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất ?
Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Chúa Phục Sinh.

Thật vậy, Chúa Ki-tô đã Phục Sinh như trong tin mừng Gio-an 20,1-9 đã tường thuật một cách tỉ mỉ như một nhân chứng đã mắt thấy tai nghe, diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là 3 nhân vật: Ma-ri-a Mac-đa-la, Phê-rô và Gio-an đã trải qua để tiến đến niềm tin "Chúa đã Phục Sinh". Chúng ta có thể suy niệm về vai trò của Phêrô và Gioan trong ý nghĩa về Giáo hội học. Nhưng hôm nay chúng ta lưu ý đến chính cuộc phục sinh của Chúa Kitô và ý nghĩa của biến cố này.

Thánh Phao-lô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,... chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền" (1Cr 15,12-19).

Vậy Phục Sinh là gì ? Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh ?

Phục Sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt là ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.

Trường hợp của Chúa Giê-su hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết nhưng khi nói rằng Ngài Phục Sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Nhưng quan trọng hơn nữa, Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và sự sống lại của chúng ta. Điều Chúa nói trước đây: "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,24) bây giờ trở nên sự thực qua việc Chúa sống lại.

Là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh các môn đệ Đức Giê-su đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài, Tin Mừng ấy là: Ai tin nhận Đức Giê-su, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được Phục Sinh như Ngài. Ngày nay tất cả mọi người tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là là niềm tin vào sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Ki-tô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm, và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.

Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, xin ban cho chúng con niềm tin mãnh liệt vào quyền năng Phục Sinh của Chúa. Xin cho chúng con sáng suốt nhận ra Ngài trong mọi biến cố cuộc đời. Nhất là xin cho chúng con luôn hăng say loan báo và làm chứng cho Ngài bất chấp mọi thử thách gian nan. Amen.

ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
John Nguyễn

1. Đức Giê-su đang sống hay đã chết trong tâm hồn ta?
Đức Giê-su đã sống lại. Điều ấy có ảnh hưởng gì đến ta không? Đức tin dạy ta rằng: "Nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích" (1 Cr 15,14). Thật vậy, nếu Đức Giê-su không sống lại, thì cho dù có Ngài, cũng sẽ không có Kitô giáo, vì người ta không có một bằng chứng cụ thể và chắc chắn nào để tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa. Và nếu như thế, ta cũng như mọi Ki-tô hữu khác đều chẳng phải là Ki-tô hữu, và lúc ấy đối với ta, Đức Giê-su cũng chỉ là một đạo sư như bao đạo sư khác. Nhưng nếu Ngài đã thật sự phục sinh và ta đã là Ki-tô hữu, thì sự phục sinh của Ngài có ảnh hưởng gì đến ta một cách hiện sinh không? Có làm ta thay đổi cuộc sống hiện nay của ta không? Biết bao lễ phục sinh qua đi, mà lòng ta hay cuộc sống ta đâu có gì thay đổi! Ta vẫn là ta, vẫn có biết bao thói hư thật xấu như trước, chẳng thay đổi bao nhiêu, đôi khi tệ hơn!

Tại sao? Vì ta đã coi sự phục sinh của Đức Giê-su như một biến cố xảy ra hoàn toàn ở bên ngoài ta, chứ không xảy ra chút nào trong bản thân ta cả. Một nhà tu đức nói: "Nếu Đức Giê-su chỉ sinh ra tại Bê-lem, chỉ sống tại đất nước Do Thái, chỉ chịu chết trên đồi Can-vê, và chỉ phục sinh trong lịch sử cách đây 2000 năm, mà không sinh ra, sống, chịu chết và phục sinh ngay trong tâm hồn ta, tại đây và lúc này, thì tất cả những biến cố ấy của Ngài đều hoàn toàn vô ích đối với ta". Vì thế, điều quan trọng để sự phục sinh của Ngài có ích lợi cho ta, là Ngài phải phục sinh ngay trong bản thân ta, trong tâm thức của ta.

Theo niềm tin và sự tuyên xưng của ta, Ngài vẫn đang sống và hiển trị, nhưng dường như tất cả đều xảy ra ở bên ngoài ta. Còn ở trong ta, trong tâm thức ta, Ngài đã chết và đã được an táng từ lâu. Thỉnh thoảng ta chỉ tưởng nhớ đến Ngài như một người đã sống cách đây 2000 năm, tương tự như ta vẫn nhớ đến ông bà tổ tiên ta, hay đến một đức Trần Hưng Đạo nào đấy trong lịch sử. Trong tâm thức ta, Ngài được coi như một người quá cố. Một người chết như thế đương nhiên chẳng có thể ảnh hưởng hay thay đổi gì ta được!

2. Hãy phục sinh Đức Giê-su trong tâm thức ta

Vậy, để được biến đổi nên một con người mới, mạnh mẽ, tốt đẹp, tràn đầy thần khí của Thiên Chúa, trước hết ta phải phục sinh Đức Giê-su ở ngay bản thân ta, trong tâm hồn ta, trong tâm thức ta. Ngài có thật sự sống và hoạt động trong ta, thì ta mới được biến đổi để trở nên như Ngài.

Trong Tin Mừng có đoạn mô tả Đức Giê-su ngủ say như chết, bất động, trên thuyền của các tông đồ giữa cơn phong ba bão táp, để mặc các tông đồ phải đối phó trong hốt hoảng sợ hãi (x. Mt 8,23-27; Mc 4,35-41; Lc 8,22-25). Đó chính là hình ảnh mô tả thật chính xác tình trạng của Đức Giê-su trong tâm hồn ta: Ngài đang ngủ, hay Ngài đã chết, nghĩa là Ngài bất động. Nếu Ngài thức hay sống trong tâm hồn ta, tất nhiên Ngài sẽ hoạt động, Ngài sẽ làm những việc lạ lùng, thậm chí phép lạ để biến đổi ta, tương tự như Ngài đã làm sóng gió yên lặng sau khi các tông đồ đánh thức Ngài dậy trên thuyền.

Cuộc đời ta, tâm hồn ta nhiều khi ảm đạm, buồn tẻ, không có gì hứng thú hay khởi sắc về mặt tâm linh, chính vì ta đã để Đức Giê-su ngủ yên hay còn nằm chết trong ngôi mộ của tâm thức ta. Lúc nào Ngài cũng hiện diện trong ta, đầy quyền năng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng làm mọi sự để biến đổi ta nên hoàn thiện, mạnh mẽ, để cứu giúp ta khi gặp cùng khốn. Nhưng thái độ lãng quên và hờ hững của ta đối với Ngài đã khiến sự hiện diện của Ngài trong ta thành một hiện diện thụ động của một xác chết, hay của một người đang ngủ. Một cách khách quan, Ngài vẫn luôn hiện diện trong ta từng giây phút, nhưng ta không hề ý thức điều ấy, ta chẳng nhớ gì đến Ngài. Ngài hiện diện ở đó, nhưng đối với tâm thức ta, Ngài dường như không hiện diện. Nói cách khác, Ngài dường như vắng mặt trong tâm thức ta. Chính vì thế, sự hiện diện khách quan nhưng thụ động của Ngài chẳng đem lại lợi ích gì cho ta, chẳng làm cho đời sống ta thêm dồi dào phong phú, bình an hạnh phúc, đang khi ta rất cần và rất mong điều ấy. Ngài hiện diện nhưng chẳng khác gì vắng mặt, Ngài vẫn sống nhưng chẳng khác gì đã chết, vẫn thức nhưng chẳng khác gì đang ngủ, vì ta đã không để Ngài hiện diện hay sống động trong tâm thức ta. Ngài giống như một kho tàng rất lớn chôn dấu ngay trong nhà ta, nhưng vì ta không biết, nên ta nghèo vẫn hoàn nghèo, và kho tàng ấy chẳng ích lợi gì cả.

Nếu nhờ ý thức, Ngài trở nên hiện diện trong tâm thức ta, lập tức sự hiện diện ấy sẽ trở thành sự hiện diện hoạt động, hữu ích. Ngài sẽ biến đổi ta một cách hữu hiệu. Cũng như khó tàng bị chôn dấu kín kia, nếu được biết đến và đem ra sử dụng, sẽ đem lại một cuộc sống hết sức phong phú và hạnh phúc.

3. Sự phục sinh của Ngài trong ta tùy thuộc vào ta


Ngài ngủ hay thức, chết hay sống trong tâm hồn ta, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào ta có đánh thức hay để Ngài sống và hiện diện trong ta hay không. Ngài để ta hoàn toàn tự do quyết định điều đó. Trong chương trình của Ngài, rất nhiều việc Ngài đòi hỏi sự cộng tác tự nguyện của ta thì mới thành sự. đó là cách Ngài trọng phẩm giá của ta, là hình ảnh của Ngài, một Thiên Chúa hoàn toàn tự do. Phẩm giá đó buộc Ngài phải tôn trọng tự do của ta, Ngài không muốn đơn phương làm mọi việc, dù Ngài có thể làm, nhất là sự hoạt động tự do trong tâm thức ta.

Như vậy, tuy Ngài hiện diện và hoạt động cùng khắp, nhưng vẫn có chỗ mà ngài không thể tự do hiện diện và hoạt động theo ý Ngài. đó là hiện diện và hoạt động trong tâm thức ta. Tâm thức ta là một không gian bất khả xâm phạm đối với chính Ngài, nghĩa là chính Ngài cũng không dám xâm phạm. Ngài chỉ vào đó để hiện diện và hoạt động trong tâm thức ta khi nào ta cho phép Ngài, bằng cách hướng về Ngài, ý thức được sự hiện diện khách quan của Ngài và nhất là hết mình sống với sự hiện diện đó. Sự hiện diện của Ngài trong tâm thức ta chỉ đạt tới tuyệt đỉnh và trở nên tích cực hoạt động khi nào ta có thể nói được như thánh Phao-lô: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).

Muốn thế, ta phải để Đức Giê-su chiếm trọn bầu trời tâm thức ta. Bình thường, "cái tôi" của ta chiếm trọn bầu trời ấy, vì lúc nào ta cũng nghĩ về ta, về quyền lợi, hạnh phúc, đau khổ của ta. Mọi hoạt động của ta đều bị cái tôi ích kỷ đó chi phối, điều khiển, huy động, khiến ta lúc nào cũng chỉ biết lo cho bản thân mình. Nhưng càng lo cho bản thân ta bao nhiêu, ta càng cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng và đau khổ bấy nhiêu, vì đòi hỏi của ta thì vô hạn, mà sức của ta thì có hạn. Trong bầu trời tâm thức đó, ta chỉ dành một khung rất nhỏ cho Thiên Chúa và người khác.

Vậy, nếu muốn Đức Giê-su luôn hiện diện sống động và sử dụng được toàn bộ năng lực của Ngài trong ta, ta phải dành trọn bầu trời tâm thức của ta cho Ngài. Ngài phải là một ưu tư, lo lắng lớn lao nhất của ta, và ta chỉ nên dành một khoảng trời bé nhỏ nào đó cho chính ta thôi. Làm như thế là ta đã phục sinh Ngài, đã đánh thức Ngài dậy trong ta, để Ngài thi thố quyền năng của Ngài. Làm như thế là ta đã đào được cái kho tàng quí báu nhất mà ta vẫn vùi sâu chôn chặt trong tâm thức ta, để biến kho tàng ấy trở nên ích lợi cho ta. Và đương nhiên sau đó, nhờ sự sống và hoạt động của Ngài trong ta, ta sẽ hoàn toàn được biến đổi, cuộc sống trở nên phong phú và hạnh phúc hơn.

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, có lẽ Đức Giê-su đã chết từ lâu trong tâm thức con, hoặc con đã để Ngài ngủ quá say trong tâm thức con, khiến cho sự hiện diện của Ngài trong con không gây nên một tác động nào ích lợi cho bản thân con, cho đời sống tâm linh của con. Xin Cha hãy giúp con đánh thức Ngài dậy, hoặc làm cho Ngài sống lại trong tâm thức con, để sự sống đích thực của Ngài triển nở trong con, và biến đổi đời sống con. Amen.

Nguồn vietcatholic.org

2227    18-04-2014 07:25:11