Sidebar

Thứ Tư
24.04.2024

Chúa Nhật IV Mùa Chay A

  1. Ánh Sáng Trần Gian
  2. Ánh Sáng Soi Chiếu
  3. Ánh Sáng Đức Tin
  4. Mù Thời Hiện Đại
  5. Ánh Sáng Chiếu Soi
  6. Ánh Sáng
  7. Ánh Sáng Ban Sự Sống
  8. Hai Cái Nhìn và Hai Lối Sống
  9. Đức Giêsu Ánh Sáng Cứu Độ Trần Gian
  10. Thầy Là Ánh Sáng Cho Thế Gian
  11. Hãy Biết Mình
  12. Đức Tin Của Người Mù
  13. Mù Lòa Và Mù Quáng
  14. Chúa Chữa Người Mù
  15. Đức Tin Người Mù
  16. Chúa Vẫn Trung Thành Mãi
  17. Đức Giêsu, Ánh Sáng Cho Niềm Tin
  18. Thiên Chúa Là Ánh Sáng
  19. Nhờ Ánh Sáng Của Ngài...
  20. Nguyện Vọng Của Người Mù Từ Thuở Mới Sinh
  21. Con Mắt Là Cửa Sổ Của Linh Hồn
  22. Chúa Giêsu Là Ánh Sáng
  23. Ngọn Đèn Đức Tin
  24. Ánh Sáng Đức Tin
  25. Chúa Giêsu Mở Mắt Cho Người Mù Lòa

ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
Ga 9, 1- 41

Anh chị em thân mến.

Khi ánh hoàng hôn từ từ buông xuống, vạn vật cũng chuẫn bị khép mình để bước vào sự yên lặng của màn đêm, một sự yên lặng bất động.

Khi ánh bình minh từ từ ló dạng, mọi vật bắt đầu vươn mình đón chào một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt trong ánh sáng chan hoà của ngày mới. Mọi công việc đều được hoạt động dưới ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không thể làm gì được. Khi con người làm việc dưới ánh sáng dù cho là ánh sáng ban ngày hay ánh sáng nhân tạo đi nữa thì vẫn phải cố sức mà làm việc, có khi vì công việc mà con người phải vất vả mệt nhọc, nhưng vẫn phải cố gắng vượt qua tất cả. Ánh sáng được mang đến để cho con người có phương tiện thuận lợi mà làm việc. Nếu con người không biết tận dụng những lúc có ánh sáng thì thật là uổng phí, vì khi không còn ánh sáng, con người khó mà thực hiện công việc cho hoàn hảo. Nhưng khi có ánh sáng, không phải lúc nào công việc cũng thành công, cũng có những khó khăn của công việc cho dù với ánh sáng đòi buộc con người phải vượt qua với tất cả quyết tâm của mình.

Một người mù từ lúc mới sinh, nghĩa là anh ta được sinh ra trong bóng đêm của cuộc đời. Anh ta ngồi bất động bên vệ đường chờ người khác ban phát. Anh không hành động gì hết vì chung quanh anh chỉ là bóng tối, nên anh không lãnh trách nhiệm gì hết. Nhưng khi anh vừa sáng mắt, ánh bình minh chiếu vào cuộc đời, thì sự yên tĩnh của màn đêm không còn nữa, mà anh bắt đầu hoạt động, bắt đầu một ngày mới trong ánh sáng. Một ngày mới với tất cả trách nhiệm của cuộc đời. Anh phải đối diện với sự thật, anh phải chọn lựa để làm chứng cho những gì anh biết là sự thật, anh phải chịu trách nhiệm về mình và những việc làm của mình. Anh đã nhìn thấy ánh sáng, anh có trách nhiệm định hướng cho cuộc đời của chính anh, nghĩa là anh phải biết vượt qua những khó khăn trở ngại để bảo vệ hồng ân Chúa. Vừa mới được sáng mắt, anh bị khai trừ khỏi cộng đoàn, bị cha mẹ từ chối, nhưng anh nhất quyết bảo vệ cho ánh sáng mà anh vừa mới nhận được, cho dù phải đối diện với những khó khăn trở ngại.

Nhận được ánh sáng là một niềm vui, nhưng là niềm vui trong trách nhiệm. Có những người không dám nhận ánh sáng, không dám bước đi trong ánh sáng, mà chỉ thích màn đen của bóng đêm.

Mỗi người trong chúng ta nhìn lại cuộc sống của chính mình, xem đang bước đi trong bóng tối, hay đang bước đi trong ánh sáng. Chúng ta đã được lãnh Bí Tích Rửa Tội, đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô hướng dẫn, thế mà trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta muốn từ chối ánh sáng đó, để bước đi trong đêm tối của cuộc đời, để không ai biết, không ai nhìn thấy những hành động việc làm của chúng ta. Những lúc chúng ta muốn trốn chạy ánh sáng, để mọi người không nhìn thấy được con người thật của chúng ta. Đó là những lúc mình chỉ muốn ngồi hưởng những mối lợi không do công sức mình làm ra, những lúc chúng ta muốn cướp công lao cực khổ của người khác mà đem về làm của mình. Những lúc đó có phải chúng ta muốn mình như người mù ngồi bên vệ đường trông chờ vào những đồng tiền bố thí, có khi khó chịu vì người khác bố thí ít quá. Cũng có những lúc chúng ta chỉ muốn sống cho riêng mình chỉ biết hưởng thụ mà bất chấp đến những người chung quanh, không nhìn thấy được những giọt nước mắt phải chảy xuống vì hành động của chúng ta. Những lúc chúng ta không nhìn thấy được trách nhiệm phải làm, phải chu toàn: trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của một người trong xã hội, trách nhiệm làm cha, làm mẹ và cả trách nhiệm làm người. Như vậy chúng ta đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?

Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống này, với trách nhiệm của đời người và nhận thức cách chính đáng, để chu toàn thật tốt đẹp, cho dù có những sóng gió cũng không làm cho mình chùn bước. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc tốt đẹp cần phải làm và sẳn sàng hành động cho dù phải gặp những khó khăn trở ngại cũng không sờn lòng. Đó là chúng ta đang bước đi trong ánh sáng thật của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để nhìn thấy ánh sáng Chúa và luôn bước đi trong ánh sáng.

ÁNH SÁNG SOI CHIẾU
Ga 9, 1- 41

Anh chị em thân mến,

Ánh sáng là món quà quí giá nhất cho con người, nhất là cho người mù không nhìn thấy. Người ta thường nói: "Chính bóng tối đã kêu gọi (cần có) ánh sáng". Người mù, một khi được sáng mắt, sẽ thấy ánh sáng quí giá như thế nào. Chỉ khi nào người ta mù, không có ánh sáng, người ta mới hiểu được ánh sáng cần cho sự sống. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa cho một anh mù từ khi mới sinh. Chính Chúa nói: "Ta là ánh sáng thế gian". Chính Chúa và Lời Chúa là ánh sáng, là của ăn tinh thần cho con người đang sống trong mù tối, vì không nhận ra Thiên Chúa. Đây là chủ đề mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.

a/. Trước hết, có một vài câu cần tìm hiểu:

"Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến anh này sinh ra bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Quan niệm xưa cho rằng người bị mù, hay bệnh tật chính là do tội lỗi của mình hay của người thân mình gây ra. Chúa Giêsu trong câu chuyện này đánh đổ quan niệm đó, Người nói: "không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta, nhưng để cho mọi người thấy được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa."

Thầy là ánh sáng cho thế gian: lời tự xưng của Chúa Giêsu, cũng là sự thật. Chúa chính là ánh sáng, và ai đến với Người sẽ có được ánh sáng như câu chuyện anh mù được chữa lành trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, thoa vào mắt người mù: người xưa tin nước miếng có sức chữa bệnh. Có lẽ Chúa muốn dùng cử chỉ tượng trưng để anh mù tin.

Có 3 thái độ cản trở con người đến để được Chúa Giêsu chữa lành: 1. của người Do Thái: mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu... Họ cho người bị bệnh mù bẩm sinh, là do tội của mình. Thật là đáng sợ khi nghĩ Thiên Chúa đã để anh mù bị bệnh, để trừng phạt anh ta. Hiểu như thế về Thiên Chúa là hoàn toàn sai lạc. Chúa nói: có người cha nào, con xin bánh lại cho con rắn hay con bò cạp? Cha trần gian mà còn đối xử với con cái mình như thế, huống chi Cha trên trời. 2. là thái độ của những người lân cận, cha mẹ của anh mù: lúc đầu họ ngạc nhiên vì anh mù được sáng mắt, sau cùng là sợ hãi, vì sợ bị vạ lây, đến nỗi tỏ ra hèn nhát và dửng dưng. 3. cách riêng là thái độ của nhóm Pharisêu, tư tế: họ ngoan cố phủ nhận Chúa Giêsu là ánh sáng là sự sống, dù họ thấy cả phép lạ Chúa cho người chết sống lại...Họ không đủ khiêm tốn để nhìn nhận sự thật. Họ là những con người đui mù thiêng liêng, họ không cần và cũng không muốn được Chúa chữa lành...

b/. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tiến trình Chúa Giêsu chữa lành tâm hồn cho anh mù: Trong câu chuyện chữa lành hôm nay, ta không thấy người mù cầu xin Chúa chữa bệnh cho mình. Cho dù nếu có mà Phúc Âm không ghi, ta cũng thấy rõ thái độ của Chúa Giêsu, muốn tự mình đi đến cứu chữa cho anh ta: Người lấy nước miếng trộn với đất xức mắt anh ta, rồi bảo anh đi đến hồ Siloê mà rửa. Anh đi đến đó rửa, và được khỏi. Sau khi anh được chữa bệnh phần xác, những người chứng kiến bị "sốc" và cứng lòng tin. Họ chất vấn anh mù. Anh công khai nói lên sự thật; chính thái độ này đã dẫn anh đi xa hơn trong niềm tin của mình. Sau đó, những người Pharisêu chất vấn nữa, nhất là khi họ biết anh được chữa lành trong ngày sabbat. Họ còn cho mời cả cha mẹ anh đến, cốt để tìm ra lý lẽ chối bỏ việc Chúa Giêsu chữa lành. Sau đó, Chúa hay biết anh bị "tấn công", Người đến gặp anh ta, tỏ mình cho anh ta biết Người là ai. Chính Chúa mời anh đi đến niềm tin. Anh mù đã không cưỡng lại, nên đã quì xuống thưa: "lạy Chúa, con tin." Anh đã được chữa lành đôi mắt tâm hồn...

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua câu chuyện anh mù được chữa sáng mắt, ta là hạng người nào trong những hạng người trên? Có phải ta ở trong hạng của anh mù, và ta thấy mình cần được Chúa chữa cho lành, để ta được sáng mắt tâm hồn không?

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
Ga 9, 1 - 41

Một trong những nỗi khổ của con người là không được nhìn thấy mọi sinh vật xung quanh. Có người từ khi mới sinh ra đã phải chịu sống trong cảnh tối tăm, mù mịt. Người khác thì trong quá trình sống do tai nạn hay căn bệnh gì đó làm cho họ mãi mãi không nhìn thấy nữa. Quả thật là một nỗi bất hạnh. Dầu vậy, nỗi bất hạnh đó rồi cũng có ngày qua đi. Cách riêng với với người công giáo thì chúng ta tin rằng căn bệnh mù đức tin mới thật là bất hạnh lớn nhất.

Nếu như tuần trước Chúa Giêsu mang đến cho ta nguồn nước hằng sống thì hôm nay Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải chính Người là Đấng mang đến cho chúng ta ánh sáng đức tin.

Nhờ có ánh sáng đức tin mà chúng ta sẽ có được cái nhìn đức tin. Chính cái nhìn đức tin đó sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn theo cái nhìn của Chúa. Cái nhìn của Chúa không theo dáng vẻ bên ngoài mà nhìn tận sâu thẳm đáy lòng người - cái nhìn của tình thương.

Bài đọc 1 cho thấy Thiên Chúa sai tiên tri Samuel đến chọn một người thay thế cho vua Saolê. Khi thấy Êliap với tướng người khôi ngô tuấn tú, tiên tri nghĩ đây chính là người Thiên Chúa chọn. Thế nhưng, Thiên Chúa phán cùng tiên tri: " Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ nhìn thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa nhìn thấy tận đáy lòng " . (1Sm 16, 7). Kế đến, Thiên Chúa đã chỉ cho tiên tri chọn Đavit là người con út của ông Giêsê.

Bước sang bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đem đến anh mù từ thuở mới sinh ánh sáng. Từ ánh sáng tự nhiên Chúa Giêsu đã cho anh được ánh sáng quý báu hơn là ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy lòng anh. Đang khi đó người Do thái ngay cả các Tông đồ nghĩ rằng do tội của anh hay của cha mẹ mà anh nên mù lòa như thế. Sau khi đã chữa lành cho anh " Chúa Giêsu hỏi: Anh có tin vào Con Người không? Anh đáp: Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin? Đức Giê-su trả lời: Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây. Anh nói: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người " (Ga 9, 35b - 38).

Qua câu trả lời và cử chỉ sấp mình của anh, chúng ta thấy anh đã thật sự tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đem đến cho anh ơn cứu độ. Như thế, Thiên Chúa biết chúng ta cần thấy những gì. Đặc biệt là những gì đem đến ơn cứu độ cho ta.

" Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán " . Đó là thái độ của những người không biết mình và không chấp nhận sự thật về mình. Thái độ và cách sống ấy thật nguy hiểm hơn trong cái nhìn đức tin. Chỉ khi nào nhìn ra được mình là thụ tạo yếu đuối, mỏng dòn và tội lỗi trước mặt Chúa thì chúng ta mới thật sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Chúa. Cũng thế, khi đó chúng ta mới có thể thông cảm và khiêm tốn trước anh chị em mình.

MÙ THỜI HIỆN ĐẠI
Ga 9, 1 - 41

Có bao giờ bạn nghĩ mình bị mù lòa dù đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, dù mắt bạn vẫn bình thường không?

Lẽ ra chúng ta đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, đang sống trong thời đại mà nền văn minh con người phát triển đến đ ỉnh cao chưa từng thấy thì người ta được mở mang trí thức để có thể nhìn cuộc sống và con người d ưới nhiều khía cạnh. Thế nhưng người ta lại mù lòa, tầm nhìn bị giới hạn trước cuộc đời và tha nhân. Đây là vấn đề chính mà Chúa Giêsu đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta đang bị mù khi nhìn và đánh giá cuộc sống hôm nay. Mù vì chỉ nhìn cuộc sống này trong phạm vi vật chất và cuộ sống này là cùng đích. Trong khi đó còn có một cái vì vượt xa và trên cả vật chất và cuộc sống con người có quá khứ, hiện tại và cả tương lai ở đời sau. Nếu như cuộc sống này bị đóng khung trong phạm vi vật chất thì thử hỏi đời người còn có ý nghĩa gì?

Cũng từ cái nhìn hạn hẹp v ề cuộc sống như thế dẫn đến cái nhìn về tha nhân cũng bị giới hạn, bị đóng khung. Người ta không còn thấy được những giá trị thiêng thiêng, không còn thấy giá trị nhân phẩm đang hiện diện trong anh em mình. Người ta chỉ nhìn và đánh giá n ười khác theo tiêu chuẩn hoàn toàn vật chất. Hai chữ tình nghĩa ngày nay dường như chỉ còn trên môi những thi sĩ, những nhà văn trong thơ văn hay tiểu thuy ết. Cái mà người ta tôn trọng hôm nay là tiền, quyền và địa vị. Vì thế khi muốn kết bạn thân thiện với ai người ta luôn nhìn người bạn ấy theo tiêu chuẩn này. Đây quả thật là một thứ mù lòa đáng sợ. Bệnh mù này không thể chữa khỏi vì người ta không biết mình đang mù hay do cố ý mù.

Cái mù thể lý trong Tin Mừng đã là một nỗi bất hạnh nhưng cái mù tinh thần của chúng ta hôm nay còn đáng sợ và nguy hiểm hơn. Vì khi lương tâm người ta trở nên mù tối thì người ta có thể làm bất kỳ điều gì mà không cần nghĩ đến tha nhân, xã hội. . . miễn bản thân mình có lợi.

Lời Chúa hôm nay như một luồng ánh sáng thiêng liêng soi sáng tâm hồn giúp chúng ta loại bỏ sự mù lòa nơi sâu thẳm của lòng mình để chúng ta có cái nhìn mới mẻ và linh thánh v ề cuộc sống và tha nhân.

Chúng ta hãy xem cách Chúa chọn một người để đặt làm vua lãnh đạo dân Chúa. Chúa không nhìn người ấy theo tiêu chuẩn mà người đời hay tìm kiếm. Nhưng Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn, nhìn cái tấm lòng và cách thức đối xử của người đó với anh em. Để chọn một người lãnh đạo, Chúa không chọn một người tài ba lỗi lạc, nhưng lại chọn Đavít một người kém cỏi, yếu đuối...... nhưng nơi con người nhỏ bé ấy chứa đựng một con tim quảng đại biết sống vì người khác và dám chết cho anh em.

Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nghĩa là con cái của Ánh Sáng, chúng ta hãy thực thi những gì thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc 2: Chúng ta là con cái ánh sáng, hãy hành động như con cái sự sáng, hãy ăn ở như con cái sự sáng và hành động xứng với địa vị mà Đ ức Kitô đã mang lại cho chúng ta. Địa vị và nhân cách ấy là con Thiên Chúa. Chúng ta hãy sống xứng với ân ban cao trọng ấy!

L ạy Chúa! Như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa m ột thế giới đầy những hình ảnh vẫn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin giúp con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới đang bị ám ảnh bởi dục tình, xin thanh lọc lòng trí con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tận hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí cuộc sống này chỉ vì những lợi ích thấp hèn.
Xin mở mắt tâm hồn con, để con thấy Chúa đang hiện hiện trong tha nhân.
Lạy Chúa, như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con trong sáng. Amen.

ÁNH SÁNG CHIẾU SOI
Ga 9, 1 - 41

Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt "như cửa sổ tâm hồn", chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người "thấy" được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.

Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày.... Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết "mở mắt" ra để đón nhận ánh sáng.

Bà già mù tôi viếng thăm , tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Ti n Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.

Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã "Thấy" Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên "dấu chỉ" sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.

Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn... Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.

Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh "sáng mắt" chối bỏ những "dấu chỉ". Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo "Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù" (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.

Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen

ÁNH SÁNG
Ga 9, 1 - 41

Cách thị trấn Cầu Ngang 2km, có một thôn xóm người ta gọi là Cà-tum. Cái xóm quê mùa dân dã giống như tên gọi ấy đến nay vẫn chưa biết đến dòng điện. Khi màn đêm buông xuống, cả một vùng tối bao la chỉ ẩn hiện một vài ánh đèn dầu leo lét. Người dân ở đây hằng đêm nhìn về góc trời thị trấn sáng rực mà ước mơ có một ngày ánh sáng của những bóng đèn điện chiếu toả trong ngôi nhà của mình.

Khao khát của người dân Cà-tum tựa như người mù mơ thấy được ánh sáng mặt trời, thấy được những đổi thay từng ngày của thế giới vật chất. Hạnh phúc biết bao cho người dân Cà-tum khi dòng điện được đưa về! Hạnh phúc biết bao cho người mù khi họ nhìn thấy ánh sáng!

Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta đi từ biến cố Đức Giêsu chữa cho một người mù từ thuở mới sinh, đến một ý nghĩa siêu nhiên: tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Anh mù từ lúc mới sinh đã sống trong tăm tối, tối cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng, Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà cho anh được sáng mắt, đồng thời mời gọi anh tiến tới ánh sáng đức tin. Anh mù quảng đại đón nhận ánh sáng đức tin ấy: "Lạy Ngài, tôi tin". Tâm hồn anh đã được chữa khỏi tật mù thiêng liêng và anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian.

Niềm vui được lành bệnh và sự nhận biết Đức Giêsu Kitô làm anh mù can trường, dũng cảm tuyên xưng đức tin và chấp nhận bị trục xuất từ nhóm người biệt phái. Quả thật, những người biệt phái là nạn nhân của tinh thần hẹp hòi, cố chấp. Họ không nhìn thấy hạnh phúc mà Đức Giêsu mang đến cho anh mù, họ chỉ nhìn thấy sự việc Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sa-bat khi chữa bệnh. Với cái nhìn hẹp hòi như thế, họ chỉ nhận ra Đức Giêsu là một người tội lỗi!

Thật là một định mệnh éo le: người mù từ lúc mới sinh đã được sáng cả thể xác lẫn tâm hồn; còn những người biệt phái vẫn tự hào sống trong ánh sáng lại hoá ra mù không nhìn thấy chân lý: "Ta là Ánh Sáng thế gian" (Gn 9,5).

Đức Giêsu là Ánh Sáng. Ánh Sáng đã đến, đang chờ đợi bạn tiếp nhận để chiếu soi, đổi mới cuộc đời bạn. Bạn quảng đại đón nhận hay từ chối để suốt đời sống trong u tối như những kẻ đui mù? Thật đáng tiếc cho những ai "chuộng bóng tối hơn ánh sáng" (Gn 3,19). Vậy bạn hãy chân thành đón nhận Ánh Sáng, nhất là ánh sáng lương tâm mà Chúa đang rọi chiếu cho bạn. Đừng kiêu ngạo chối từ, nhưng hãy khiêm tốn trông chờ ánh sáng chân lý. Đừng vị kỷ trước những đòi hỏi của Ánh Sáng, nhưng hãy sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Ánh sáng Lời Chúa. Có như thế, tâm hồn bạn sẽ trở nên trong sáng và Đức Kitô sẽ luôn chiếu sáng trên cuộc đời bạn (x. Ep 5,14).

ÁNH SÁNG BAN SỰ SỐNG
Ga 9, 1 - 41

Trên đường đi mua nước a-xít đậm đặc trở về để pha chế làm bình ắc-qui, anh Hiếu, thợ làm bình ắcqui, cố tránh một con chó chạy ngang qua đường, nên anh bị té xe. Những giọt a-xít từ chiếc bình bị vỡ đã bắn tung toé khắp người anh. Khủng khiếp nhất là một vài giọt đã văng trúng vào mắt anh và vĩnh viễn cướp đi đôi mắt của anh. Gặp lại anh trong cảnh mù loà, anh tâm sự : "sống trong cảnh mù loà và tối tăm này thật là khủng khiếp." Anh nói trong sự thất vọng và chán chường những lời như thế. Tôi hiểu được nỗi đau khổ quá lớn của anh và thầm cầu mong cho anh có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng cơn đau đớn và buồn khổ mà anh đang gánh chịu. Nhưng khi đó, tôi lại suy nghĩ về một sư mù loà lớn lao hơn là sự mù loà về mặt tinh thần. Sống trong cảnh mù loà thể xác đã đau khổ như thế, thì sống trong sự mù loà về mặt thiêng liêng chắc chắn sẽ còn đau khổ hơn gấp nhiều lần. Vì những ai sống trong cảnh mù loà thiêng liêng sẽ không nhìn thấy được sự thật, không nhìn thấy ánh sáng thật mang lại sự sống đời đời cho họ. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới sinh. Anh mù này đã gặp được chính nguồn sáng là chính Đức Giêsu. Ngài đã mở mắt cho anh và cứu chữa anh. Từ việc được sáng mắt thể xác, anh đã tiến đến việc sáng mắt tâm tâm hồn : nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa trợ giúp anh. Đức Giêsu chính là Ánh sáng, Ánh sáng phát xuất từ Nguồn Sáng là Thiên Chúa, Ngài là Ánh sáng ban sự sống vĩnh cửu cho con người .

Thấu hiểu sự đau khổ của anh mù, Đức Giêsu đã cảm thương anh và tự nguyện đến cứu chữa anh. Ngài đã giải thoát anh khỏi đau khổ nơi thân xác như dấu chỉ của Sa tan đang đè nặng trên con người của anh. Việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ, trên sự tối tăm và sự chết. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người, đặc biệt là cho những ai biết nhận ra Ngài. Câu chuyện của người mù cũng chính là câu chuyện của chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tuy không bị mù về thể xác, nhưng rất có thế chúng ta đang bị mù về tinh thần.

1. Mù vì không nhận ra sự thật.

Sự thật đó là :
- Thiên Chúa là Đấng Tạo hoá muôn loài và là Cha của tất cả chúng ta; còn tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.
- Con người là hồn và xác được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài
- Đức Giêsu là Con một duy nhất của Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chịu muôn vàn đau khổ và sỉ nhục chỉ vì yêu chúng ta.
- Tất cả những gì chúng ta đang có đều là hồng ân của Chúa ban.
- Ơn Chúa chính là sự sống của chúng ta.
- Hội thánh Công Giáo do Chúa Giêsu sáng lập chính là người mẹ dịu hiền của tất cả chúng ta.
Những sự thật đó rất nhiều khi chúng ta không nhìn thấy. Như vậy, có thể nói là chúng ta đang sống trong cảnh mù loà về mặt tinh thần và thiêng liêng.

2. Mù vì không sống theo những giá trị Tin Mừng đòi hỏi:

Lời Chúa là sự thật, là ánh sáng soi đường con người tìm về Chân Thiện Mỹ, dẫn đưa con người về sự sống vĩnh cửu. Nhưng nhiều khi vì muốn sống và làm theo ý riêng, vì lười biếng, vì nhát sợ, vì lợi lộc thấp hèn và những thú vui chóng qua ở đời này mà chúng ta đã bỏ qua Lời của Thiên Chúa .

Chấp nhận sống theo Lời Chúa là chấp nhận lội ngược dòng, chấp nhận bước trên con đường chẳng mấy ai đi. Nhưng chắc chắn ở phía cuối của con đường ấy là một tương lai huy hoàng dành cho những ai can đảm và trung tín đến cùng.

Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa chữa cho mắt tâm hồn chúng ta khỏi cảnh mù tối thiêng liêng, để chúng ta biết nhìn ra sự thật, hiểu được giá trị lớn lao của Tin mừng và can đảm sống theo những giá trị đích thực đó. Đừng bao giờ tìm cách huỷ diệt ánh sáng chân lý vì kiêu ngạo hay vì thành kiến như những Biệt phái trong Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người. Hãy hân hoan tìm đến với Ngài để được sống và sống muôn đời.

HAI CÁCH NHÌN VÀ HAI LỐI SỐNG

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Ở đời, khi nói về nỗi khổ thể lý của người bị mù lòa, người ta vẫn thường nói: "giàu hai con mắt, khó hai bàn tay"; còn đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng tác... vì thế, có câu: "Mắt em là một dòng sông, thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em" (Lưu trọng Lư); hay đối với những nhà nhân tướng học thì: "Con mắt là phản ảnh của tâm hồn". Nên nhìn con mắt, người ta có thể đoán bắt được tính tình; hoặc với các nhà khoa học thì: "Con mắt được coi như một chiếc máy chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh kịp[...]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức mà con người hấp thụ được..."  

Vì thế, con mắt được gọi là "cửa sổ của linh hồn". Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng, nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà được trông thấy. Trong cuộc sống thực tế, hình ảnh của anh mù đối lập với nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì có rất nhiều người hiện nay sáng mắt về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.

Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà cụ thể là nơi Đức Giêsu và những người sống cùng thời với Ngài.

1.      Hai cách nhìn và hai lối sống

Điều trước tiên, chúng ta cần nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu biết người phụ nữ này có quá nhiều đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42). Nếu các Pharisêu và phần đông người Dothái giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã vượt lên trên luật để giải phóng con người, hầu đem lại cho con người được hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa người ta vào trong đường lối nhân hậu, bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: "Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta"(Is 55, 8).  

Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x. Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Như vậy, từ Samuel, đến các môn đệ là những người sống bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có "chất Chúa" khi nhận xét một thực tại!

Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa hiểu hết được ý định của Thiên Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho nên họ khước từ chứng tích của anh mù về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng đồng, xã hội của họ. Nếu Đức Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu không xuất hiện thì đã không có chuyện...

Trước mặt những người Pharisêu và người Dothái cũng như theo lỗi suy diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện, trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể gần gũi với những người tội lỗi... (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai, nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc sống, cụ thể là những nơi, những người cần được cứu độ thì mâu thuẫn nội tại với Người, bởi vì: "Thiên Chúa là tình yêu".

Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng đúng ngày cấm kị của người Dothái theo luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: "Chúng ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và, Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói: "Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ luật.

2.      Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta một vài điều:

Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel đã được Chúa gọi, chọn và được đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của Người?

Thứ đến, chúng ta cũng không ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội của anh hay của cha mẹ anh?

Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án những người Biệt Phái vì có một quan điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt! Đồng thời kết án họ vì cố chấp bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một định kiến, chống đối và thù ghét cũng như khinh thường những người thấp cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án nữa là vị họ sống hình thức, vụ luật...;

Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng thương hại cho những người Dothái thời bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến và gán mặc cho người khác những điều mà cả cuộc đời của họ không sao ngóc đầu lên được, chỉ vì một lần trong đời họ bị lỡ...

3.      Sống sứ điệp Lời Chúa

Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta vẫn "bình chân như vại" mà sẵn sàng lên án người khác. Vì thế, vẫn còn đó những chuyện đau lòng như:

Nếu ai đó một thời vướng vào cái tội gọi là "đầu trộm đuôi cướp" thì cả đời không thể thoát ra khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi, dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại, và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải làm gái điếm... thì mặc cho cô ta đã hối hận, quay đầu trở về và hướng thiện, thì cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu, chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện ngập, hút trích... những người này, dưới con mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay cả những người có lòng giúp đỡ họ cũng bị khinh thường theo.

Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu họ bước lên. Không những thế, nhiều khi chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì "vẽ đường cho voi chạy"; hay như một cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt, rồi "ngựa quen đường cũ", nên đôi lần chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc đời của họ bi đát hơn và không thể ngẩng đầu để tiến về phía trước với hy vọng thay đổi cuộc đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: "Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình" (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về hàng ngũ những tội nhân cần được đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là người vô tội trước mặt Chúa cả: "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1, 8).

Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi nhọ những thiếu xót của anh em. Những người như thế, Đức Giêsu đã cảnh báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!" (Lc 6,42). Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!

Hình ảnh của Đức Giêsu, vị mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương xót không hề có một thái độ như thế. Ngài sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con người khiêm tốn, liên đới để cứu độ những người tội lỗi. Tinh thần ấy đã được Ngài sống và giảng dạy: "...giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là đến để cứu chữa những người tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì người khỏe mạnh thì không cần đến thầy thuốc. Như vậy, những người thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại ra bên lề lại là đối tượng số một của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.

Nếu chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải coi những người anh em đó là đối tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ vụ nơi chúng ta.

Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía người tội lỗi, bất hạnh để cùng đồng hành với họ và đôi tay biết dang rộng để nâng dạy những người tội lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về phía trước. Được như thế, hẳn sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ hàng ngũ của người tội lỗi!

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà một thời đã "thượng vàng hạ cám", chúng ta xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô, người trối Chúa; người phụ nữ ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp; Augutinô... và còn biết bao vị thánh lỗi lạc khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái điếm, trối Chúa, bỏ đạo...! Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá đáng để chúng ta suy ngẫm: "Lạy Cha, xin tha cho họ...". Thử hỏi rằng trên trần gian này có tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.

Như vậy, Mùa Chay, mỗi người chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình, để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể lý, nhưng lại mù về đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Amen.

ĐỨC GIÊSU ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN
Ga 9, 1 - 41

1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !" (Ga 9,39).

2. CÂU CHUYỆN:

1) XIN ĐƯỢC SÁNG MẮT NẾU CÓ ÍCH CHO PHẦN RỖI ĐỜI ĐỜI:

Có một anh chàng nọ bị mú tư khi mới sinh. Anh rất có lòng đạo nên năng cầu nguyện tự phát và thường kết thúc lời nguyên bằng kết thúc lời cầu của mình bằng câu: "Xin Chúa ban cho con được sáng mắt « Nếu điều đó hữu ích cho phần rỗi của con". Một hôm, người ta dẫn ông mù đến trước mộ của thánh Tô-ma Can-tô-be-ry để xin Người làm phép lạ chữa lành cho cặp mắt của ông. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận và mắt của ông đã mở ra được để nhìn xem cảnh vật chung quanh và ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Khi niềm vui khỏi bệnh trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc quen thuộc: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con".

Lập tức ông liền quay trở lại viếng mộ thánh nhân để xin được mù trở lại « Nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn con ». Sau lời cầu này, mắt ông đã bị mù như trước. Tuy nhiên từ ngày đó ông mù đã bằng lòng với sống an vui và không bao giờ còn muốn được sáng mắt nữa.

2) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI SẮP SÁNG ?

Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: "Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến ?" Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu... Cuối cùng đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy như sau: "Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta".

3. SUY NIỆM:

1)  Đức Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được sáng mắt:

Khi đi ngang qua, Đức Giê-su đã nhìn thấy một ngừời mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Các môn đệ nêu thắc mắc theo quan điểm của người Do thái đương thời về tội lỗi như sau: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?"  Đức Giê-su không trực tiếp trả lời, mà Người chỉ nói :"Chuyện đó xẩy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh".

 Tiếp đến Tin Mừng thuật lại việc chữa bệnh mù của Đức Giê-su bằng những cử chỉ mang tính biểu tượng như sau: "Đức Giêsu nhỏ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đi đến suối Si-lo-ê mà rửa (Si-lo-ê có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được" (Ga 9,6-7).

2) Cuộc điều tra của các đầu mục Do thái:

Những người Biệt phái không chấp nhận Đức Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người bệnh mù nên họ đã mở một cuộc điều tra rộng rãi: Trước hết họ mời người bị mù đã được Đức Giê-su chữa lành đến tra vấn về những gì đã xảy ra cho anh, rồi cả những người láng giềng và cha mẹ của người mù cùng được mời đến để điều tra thực hư. Trước phép lạ hiển nhiên không thể phủ nhận được, các người Biệt phái đã tìm cách gây khó dễ cho người mù. Tuy nhiên anh mù này do đã có một đức tin kiên cường vào Đức Giê-su, nên anh không dễ dàng khuất phục trước cường quyền, anh đã thuật lại rành rẽ các việc Đức Gie-su đã làm để chữa bệnh cho anh và anh còn nói lên suy tư của anh về nguồn gốc thần linh của Người như sau: "Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 9,30-33).

3) Về tiến trình anh mù được sáng lòng để từng bước tin vào Đức Giê-su:

Trong suốt cuộc gặp gỡ đối thoại với Đức Giê-su, anh mù đã được Người soi sáng để từng bước khám phá sự thật về vai trò cứu độ của Người: Từ "một người tên là Giê-su" (11) đến "một vị Ngôn sứ !" (17), rồi "Người bởi Thiên Chúa mà đến" (33). Sau cùng khi đã được Đức Giê-su mặc khải mình là Con Người (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: "Thưa Ngài, tôi tin" và anh thể hiện lòng tin bằng việc khiêm hạ sấp mình thờ lạy Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn đi tìm Chúa mới được Người cho gặp và mới nhận được ơn Chúa chiếu soi ánh sáng để đạt được đức tin. Trái lại, những ai tự kiêu lại tưởng mình sáng mắt, có sự hiểu biết sự vật bề ngoài lại trở nên mù tối về đức tin, như Người đã nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !" (39).

4) Sám hối canh tân trong Mùa Chay thánh:

- Những nguyên nhân của bệnh mù tinh thần: Thói ích kỷ làm chúng ta ra mù tối không nhìn thấy nhu cầu của tha nhân bên cạnh mà chỉ tìm kiếm thỏa mẫn các quyền lợi của mình như người giàu trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khổ. Thói vô cảm làm chúng ta bị mù tình thương nên dễ làm ngơ trước những anh chị em đang cần được trợ giúp; Thói tự kiêu làm chúng ta bị mù không nhìn thấy thói hư bản thân mà chỉ thấy những điều xấu nơi tha nhân mình không thích. Mỗi người chúng ta đều đeo hai cái túi: Túi trước mặt là các ưu điểm và thành tích của mình, còn túi sau lưng đựng những thói hư tật xấu. Thường chúng ta chỉ thấy ưu điểm của mình và khuyết điểm của tha nhân. Để biết mình ra sao, chúng ta cần phải biết hồi tâm sám hối. Mùa Chay  là thời kỳ thuận tiện để nhận biết thói hư của mình và quyết tâm tu sửa nên hoàn thiện hơn.

- Cần xét đoán dưới ánh sáng của Lời Chúa: Ngày xưa Đức Chúa đã hướng dẫn ngôn sứ Sa-mu-en chọn một trong các con của Giét-sê để xức dầu tấn phong làm vua như sau: "Đừng xét theo hình dáng và voc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng" (Sm 16,7). Hãy năng tham dự các buổi tĩnh tâm, hiệp sống Tin Mừng và chọn đọc những câu Lời Chúa phù hợp tinh thần sám hối trong các giờ kinh tối gia đình hằng ngày.

- Cần tập hành xử khiêm tốn: Trong bất cứ việc gì, cần ý thức mình chỉ thấy chỉ biết một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng nổi lên trên mặt biển. Còn những điều chưa biết thì to lớn và chìm sâu bên dưới mặt nước. Do đó, thay vì tranh cãi nhau như năm anh mù đi xem voi cãi nhau về những điều mình không biết rõ, chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe tha nhân. Hãy chấp nhận sự giới hạn của mình, chấp nhận những điều mình biết là chưa đầy đủ, chưa phải là chân lý để tiếp thu thêm kiến thức của tha nhân; Cần ý thức các ưu điểm của mình cũng chỉ có giới hạn như người xưa đã dạy: "Cao nhân tất hữu cao nhân trị" (Một người giỏi chắc chắn sẽ có người khác giỏi hơn đánh bại). Do đó chúng ta cần hành xử khiêm tốn để luôn tôn trọng tha nhân, biết lắng nghe ý kiến của người khác và sẵn sàng tiếp thu các góp ý để nhận ra con người thật của mình, vì "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!" và đó là phương thế giúp thành công trong mọi việc: "Biết mình biết người trăm trận trăm thắng". Cần biết lắng nghe tha nhân: Nghe không những lời khen mà cả những lời phê bình chê trách, và tránh xa những lời nịnh hót như người xưa dạy: "Ai khen ta mà khen phải thì là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Còn ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy".

4. THẢO LUẬN:

Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để có thể nhận biết về con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin đừng để sự ác cảm và thành kiến che mắt, làm cho chúng con không nhìn thấy những ưu điểm của người khác. Xin cho chúng con luôn khiêm tốn nhận ra khuyết điểm lầm lỗi của mình để sửa sai. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, nơi bản thân con và nhất là nơi anh em con để sẵn sàng yêu mến và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hầu xứng đáng nên môn đệ thực sự của Người.

- LẠY CHÚA: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý... Nhất là đang bịt tai nhắm mắt vì sự cứng lòng tin như những người Pha-ri-sêu khi xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên giống Chúa hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH -  HHTM

THẦY LÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN
Ga 9, 1 - 41
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ánh sáng là năng lực rất cần thiết cho mọi sự sống từ con người, đến con vật, đên cây cỏ, vạn vật vv...Thiếu ánh sáng, con người sẽ đâm vào cảnh khốn cùng, sẽ rơi vào cảnh tang thương, chết chóc. Cây cối sẽ không tăng trưởng, phát triển được khi vạn vật, vũ trụ thiếu ánh sáng. Chúa nhật IV Mùa chay, Giáo hội muốn cho chúng ta nhận ra Ánh Sáng thật là Đức Kitô. Bởi vì, qua phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù từ thuở bình sinh, Ngài muốn dẫn anh mù và cả nhân loại thoát khỏi sự mù tối tâm hồn để đưa vào vòng ánh sáng, biết đón nhận Ngài và tin tưởng đi theo Ngài...Vì Ngài là Ánh Sáng soi đường, chỉ lối cho nhân loại...

Tin mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại câu chuyện phép lạ thật sinh động, hấp dẫn, đưa chúng ta đi từ sự ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Những người Pharisêu cố ý tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu vì qua việc chữa lành cho anh mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Chúa Giêsu đã làm những cử chỉ thật đơn giản, xem ra phản cả khoa học, mà Ngài lại làm phép lạ vào ngày Sabbat, ngày người Do Thái kiêng kỵ, cấm đoán con người không được làm việc. Ngày Sabbat là ngày nghỉ...Chúa vượt lên trên cả những cấm kỵ, những rào cản phản Tin mừng. Ngài đến để đem tình thương cho con người.Ngài đến không phải để phá lề luật nhưng để làm cho lề luật được nên hoàn thiện. Do đó, những người Pharisêu căm tức, thù oán Ngài. Họ gán cho Chúa là người tội lỗi :" Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi " ( Ga 9, 24 ). Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết tin nhận Thiên Chúa :" Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không tôi không biết.Tôi chỉ biết một điều, là trước đây tôi bị mù nay tôi nhìn thấy được " ( Ga 9, 25 ). Khi gặp lại Đức Giêsu, anh mù ta tuyên xưng: " Thưa Ngài, tôi tin ". Rồi anh sấp mình xuống thờ lạy Người ( Ga 9, 38 ). Sở dĩ, nhưng người Pharisêu, Kinh sư và giới lãnh đạo tôn giáo lúc đó không nhận, không tin Chúa bởi vì họ lòng chai dạ đá, họ cứng cỏi, đặc biệt họ sống trong sự tội, mà đang sống trong tội lỗi thì làm sao nhận và tin được Ngài...Một phép lạ tỏ tường như thế, nhưng người Pharisêu vẫn không nhận ra Chúa .Họ đang sống trong tối tăm mà cứ tưởng mình sáng. Họ đang sống trong tội lỗi mà cứ tưởng mình thánh thiện. Họ tự nhận :" Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ? " ( Ga 9, 40 ) và Chúa Giêsu đã trả lời thẳng thừng với họ :" Nếu các ông mù, thì các ông đã chẳng có tội.nhưng vì các ông nói : chúng tôi nhìn thấy được, nên tội các ông vẫn còn đó " ( Ga 9, 41 ).

Chúa Giêsu đã làm một phép lạ mà muôn đời y khoa cũng vẫn phải bó tay. Điều này, cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Chúa. Chúa đã làm ch anh mù được sáng mắt một sự ước ao, trông đợi mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Chúa đã làm ch anh mù được khỏi mù về thể lý, nhưng trên hết Chúa đã làm cho anh mù có đức tin để nhận ra Ngài và tin vào Ngài...Mù về thế lý đã vô cùng khổ sở nhưng có một thứ mù lòa kinh khủng khiến con người không thể nhìn ra sự thật, nhìn ra ánh sáng. Đó là thứ mù lòa tâm linh. Một sự mù lòa tinh thần do sống trong sự tội.

Anh mù hôm nay đã quá hạnh phúc vì Chúa đã chữa cho anh thấy được một sự thật hiển nhiên mà bất cứ một thầy thuốc giỏi giang đến mấy cũng không chữa được. Y khoa dù có tiến bộ vượt bực cũng không thể làm được điều ấy. Mùa chay là mùa chuẩn bị tâm hồn các dự tòng lãnh nhận bí tích thanh tẩy và giúp các tín hữu sống lại phép rửa tội họ đã lãnh nhận. Nên, các bài đọc đặc biệt các bài Tin mừng của thánh Gioan giúp các tân tòng nhận ra Chúa, tin và đi theo Chúa. Bí tích thanh tẩy đưa con người vào sự sống Thiên Chúa và giúp con người nhận ra Ánh sáng là chính Đức Kitô.Mùa chay là mùa ân sủng, mùa hồng ân để giúp chúng ta cơ hội thuận tiện sám hối, ăn năn và trở về với Chúa vì " Chúa là Đường,là Sự Thật và là Sự Sống ".

Ánh sáng rất cần cho sự sống, như lương thực: thức ăn, nước uống cần cho con người. Lời Chúa là ánh sáng soi đường, chỉ lối cho con người như của ăn nuôi sống tâm hồn như Chúa đã nói :" Thầy là ánh sáng cho thế gian " (Ga 9, 5 ).

HÃY BIẾT MÌNH
Ga 9, 1 - 41
Lm Jos Tạ Duy Tuyến

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thuê lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

"Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen

ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI MÙ
Ga 9, 1 - 41
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Khi còn là sinh viên triết học, đã có nhiều lần tôi được đi thăm trường mù. Gặp những anh chị em mù, cảm giác của tôi là thương họ, tôi vẫn còn nhớ thật rõ những gương mặt thật rạng rỡ của những em học sinh mù, nhưng ẩn khuất một cái gì thật khó nói nơi họ, đó là họ không thể nhìn thấy người đối diện họ. Tin Mừng Chúa nhật thứ IV Mùa Chay trình bầy về một người mù từ thuở mới sinh. Người mù này đã được Chúa Giêsu làm phép lạ cho sáng mắt...

Tôi đã có dịp trò chuyện, thăm hỏi những anh chị em mù và đã được các anh chị em mù tâm sự rất nhiều về cuộc sống, về tình trạng mù lòa của mình và về những ước mơ, mơ ước các anh chị em mù mong muốn. Có thấy những người mù, có trò chuyện với họ, chúng ta mới cảm thấy chúng ta được hạnh phúc thế nào khi sáng mắt, bởi vì nhờ đôi mắt chúng ta được nhìn ánh sáng, vũ trụ và con người. Nỗi khổ của người mù là không thấy ánh sáng, đặc biệt đau khổ nhiều nhất là những người đã sáng mắt bỗng bị mù lòa, họ đã được thấy, nay bỗng không nhìn được nữa và tất cả đối với họ chỉ là mầu đen, chỉ là ê chề, thất vọng, nêu họ không được động viên, khuyến khích, nhất là khi họ không được khơi dậy niềm tin. Bài Tin Mừng của thánh Gioan 9, 1-41 thuật lại về một người mù từ lúc bẩm sinh. Người mù này đã hạnh phúc biết bao khi được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt. Tin Mừng cho hay người mù này trước và sau khi được Chúa chữa lành luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận đen đủi, hẩm hiu của mình. Người mù được Chúa chữa lành về mặt thể xác là một ân huệ cao cả. Nhưng cao cả hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã khai mở đức tin cho người này khiến anh nhận ra Chúa là một ngôn sứ, là Người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh Sáng thế gian. Tuy nhiên, để nhận ra Người đã chữa lành cho anh lại là một chuyện khác bởi vì anh đã phải vượt qua một cuộc hành trình đầy chông gai do anh chưa thể hiểu, do Lề luật của tôn giáo rào cản, do sự cứng cỏi, chống đối của những người Pharisêu có mắt nhưng lại mù lòa. Cuộc hành trình đi tới đức tin của anh cứ bị đe dọa, hạch sách, ngăn đe của giới có quyền, có chức, của giới lãnh đạo tôn giáo. Với sự cố gắng, với sự khai mở của Đức Giêsu Kitô, anh mù đã vượt qua được tất cả sự cam go, thử thách và dọa nạt từ nhiều phía và rồi anh đã tới được với đức tin ngời sáng. Chính anh đã bênh vực cho Đức Giêsu khi biết bao người phủ nhận phép lạ Chúa Giêsu mới làm cho người mù mắt, kết tội Chúa đã chữa lành ngày sabbat, là ngày nghỉ không được làm việc, không được chữa lành, không được cứu vớt. Anh đã không những bênh vực cho Chúa Giêsu mà còn dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: " Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " ( Ga 9, 31-33 ).

Anh mù đã nói rất chi lý bởi vì nếu Chúa Giêsu là người tội lỗi thì làm sao Ngài có thể làm phép lạ cho anh ta sáng mắt. Những người lên án Chúa tưởng mình sáng nhưng kỳ thực họ đang sống trong tình trạng tội lỗi và họ có mắt nhưng thực tế đang mù lòa. Những người Pharisêu, những Kinh sư, những người Do Thái cứng lòng, cố chấp, mù quáng, chai lì, họ làm sao nhận ra được Thiên Chúa, làm sao họ thấy được Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, Đấng Thiên sai, Đấng cứu độ thế gian. Họ đã không thể nhận ra Người đã chữa anh mù đang đứng ở đó là chính Con Thiên Chúa: Đức Giêsu Kitô. Họ đã chai lì, họ đã mù lòa cả thể xác và tinh thần. Đây quả là một sự bất hạnh lớn lao cho họ.

Chúa Giêsu đã làm một phép lạ mà y khoa muôn thời đã bó tay vì mù từ bẩm sinh không thể chữa lành được. Chúa đã dùng quyền năng phi thường của Thiên Chúa để làm cho anh mù bị mù bẩm sinh được sáng mắt về mặt thể xác nhưng trên hết Ngài đã làm cho anh ta có đức tin để nhận ra Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa mà rất nhiều người sáng mắt không nhận ra.

Có một thứ mù lòa về tinh thần nghĩa là chìm đắm trong tối tăm tội lỗi thì thật khổ sở bởi vì họ không thể nhìn ra sự thật, họ tự kiêu, tự mãn, cố chấp, ương ngạnh trong suy nghĩ và trong cái nhìn của mình khiến họ không thể nhận ra Chúa là Ánh Sáng.

Anh mù hôm nay quả hạnh phúc và sung sướng biết bao khi Chúa mở mắt cho anh và mở đức tin cho anh để anh nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là ánh Sáng chiếu soi thế gian. Chúa đã thắp sáng tin yêu đời của anh mù. Chúa luôn chờ đợi chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay, Chúa cho chúng ta một cơ hội, một dịp thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa sẽ mở mắt đức tin, mở mắt tâm hồn cho chúng ta và thắp sáng tin yêu để chúng ta vui sống, vượt thắng mọi khó nguy, thử thách và chông gai trên cuộc hành trình đức tin của chúng ta.

MÙ LÒA VÀ MÙ QUÁNG
Ga 9, 1 - 41
LM Inhaxiô Trần Ngà

Ngày xưa ở Ấn- độ, có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù:

Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.

Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:
- Tâu bệ hạ! Con voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
- Voi giống như cái quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
- Voi giống như một khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
- Voi giống như một tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)

Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:
- Lâu nay hạ thần tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).

Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại ...

Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.

Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.

Người mù quáng chỉ biết một phần mà cứ tưởng rằng mình biết toàn bộ, chỉ mới am tường một khía cạnh mà cho là mình đã quán triệt hoàn toàn... và cho rằng những ai không suy nghĩ như mình, không cùng quan điểm với mình, không phát biểu như mình là sai lạc. Họ không hề chấp nhận ý kiến người khác, hoặc tìm cách triệt hạ người bất đồng quan điểm với mình.

Đây là căn bệnh tinh thần rất phổ biến trong xã hội loài người suốt dòng lịch sử và đã gây nhiều đổ vỡ đau thương cho nhân loại.

Những người biệt phái được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thuộc hạng người mù quáng. Mắt các ông tuy sáng nhưng tâm hồn hoàn toàn mù tối. Các ông đã từng nghe lời Chúa Giê-su dạy, từng thấy phép lạ Chúa Giê-su làm và một trong các phép lạ ấy là việc chữa lành người mù bẩm sinh đang xảy ra sờ sờ trước mắt. Vậy mà các ông vẫn không nhìn nhận Ngài do Thiên Chúa mà đến, lại còn nhẫn tâm trục xuất người mù vừa được Chúa Giê-su chữa lành ra khỏi cộng đồng chỉ vì người nầy không cùng quan điểm với các ông, không chối bỏ sự thật như các ông...

Đọc kinh thánh, ta thấy lòng ghen tị của Ca-in đã làm cho anh trở nên mù quáng, mù quáng đến độ ra tay giết hại A-ben là đứa em hoàn toàn vô tội chỉ vì lễ vật của A-ben đẹp lòng Thiên Chúa.

Lòng ghen tị cũng đã làm cho vua Sao-lê trở thành mù quáng. Ban đầu vua rất yêu thương Đa-vít, xem Đa-vít như con. Nhưng khi Đa-vít giết được tướng giặc khổng lồ Gô-li-át, dân chúng hoan hô ca ngợi Đa-vít còn hơn vua, nên vua đâm ra ghen tức, lòng trí hoá ra mù quáng khiến vua săn lùng Đa-vít như một ác thú tận thâm sơn cùng cốc, tìm mọi cách giết hại vị anh hùng tài ba dũng cảm nầy.

Đến lượt Đa-vít, khi được lên ngôi vua, cũng trở nên mù quáng vì tình dục. Do say đắm sắc đẹp của bà Bát-sa-bê, vợ của U-ri-a, nhà vua đã sa ngã phạm tội với bà, sau đó lại tìm cách giết U-ri-a chồng bà và rồi chính thức cưới bà ấy làm vợ. Mù quáng đến thế thì thật là khủng khiếp!

Như thế, người mù quáng tự làm cho mình bị suy thoái nghiêm trọng, trở thành người xấu xa và gây thiệt hại khôn lường cho người khác.

Ngoài ra, điều tệ hại nhất là người mù quáng ít khi tự thấy được sự mù quáng của mình, không nhận ra lầm lỗi của mình, kể cả những tội tày trời, nên ngày càng lún sâu trong tội, vô phương cứu chữa!

Lạy Chúa Giêsu, như những người biệt phái xưa, con là người mù quáng cần được Chúa xót thương.

Xin thương mở mắt tâm hồn con như Chúa đã mở mắt người mù bẩm sinh được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay để con được thoát khỏi tối tăm lầm lạc và được hoan hỉ bước đi trong ánh sáng Tin Mừng.

CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ
Ga 9, 1 - 41
LM Trần Tân

Những bài đọc và nội dung của Thánh kinh Chúa Nhật thứ 4 mùa Chay chu kỳ năm A quá phong phú và chuyển tải nhiều thông điệp. Chúng ta chỉ khai triển vài khía cạnh của các thông điệp ấy. Những bài đọc này được Giáo hội Mỹ ưa chuộng và khai thác đặc biệt trong các giáo án dành cho các lớp dự tòng.

Nếu chỉ đọc thoáng qua, ta không thấy những móc xích liền lạc như cầu nối, nối kết nội dung cả 3 bài đọc lại với nhau. Nội dung chính là về ánh sáng. Ánh sáng là yếu tố cần thiết để các sinh vật tồn tại và phát triển. Ánh sáng cần thiết để ta nhìn rõ sự việc, để thẩm định chính xác vấn đề, để đạt tới quyết định đúng đắn, và qua đó sinh hiệu qủa phong phú.

Qua bài sách thánh tiên tri Samuel, tất cả chúng ta cảm thấy được rất an ủi vì Chúa là đấng thấu rõ tâm can con người. Ai cũng có nhiều ít khuyết điểm hay những mặc cảm trong cuộc sống. Có người buồn vì kém thông minh. Có người buồn vì cánh cửa cuộc đởi mình đóng lại, thiếu vắng cơ hội tốt. Có người buồn vì vóc dáng không sáng sủa. Có người buồn vì nhìn đã sáng sủa nhưng chiều cao lại khiêm tốn. Rất nhiều nỗi niềm và rất nhiều mặc cảm khác... Qua bài đọc này tại sao ta được an ủi? Vì Chúa là Đấng có cái nhìn thấu suốt. Chúa đọc được tâm can con người và thấu suốt nỗi lòng cũng như thiện chí của ta. Câu truyện Chúa thúc giục và hướng dẫn Samuel lựa chọn xức dầu phong vương 1 trong các con của Jesse là bằng chứng. Cả vị tiên tri cũng lầm tưởng khi được sai đến xức dầu ngưòi Chúa tuyển chọn. Ông đã tự nghĩ và phán quyết theo lối nhìn tự nhiên...chọn người có tướng tá, chọn nhân vật ra vẻ vóc dáng. Chúa đâ giáo huấn chính vị tiên tri và các người khác rằng đường lối của Chúa khác của người ta. Chúa không nhìn theo sự thẩm định hời hợt ngoại diện, theo vỏ bề ngoài, nhưng đạt thấu tâm can, đi vào đúng nội tâm con người. Chúa chính là nguồn sáng và là Đấng ban phát ánh sáng hiểu biết.

Trong giáo huấn cho giáo đoàn Ê phê sô, thánh Phaolô đã nhắn nhủ, đào sâu khía cạnh ánh sáng và bóng tối. Khi chưa nhận biết Chúa, chúng ta là con cái sự tối tăm và buớc đi trong bóng tối; một khi đã nhận biết, và có Thiên Chúa trong cuộc đời rồi, ta phải sống và hành xử như con cái sự sáng. Ở đây có một chi tiết liên quan đến tu đức của bí tích giải tội. Thánh Phaolô nói ta phải moi móc, phơi bày những việc làm cũ của sự tăm tối ra. Cũng như ánh nắng tia sáng mặt trời sẽ biến đổi và sàng lọc nước thải đá bị ô uế (sanitary field/pool) để biến thành lành mạnh tốt đẹp, ta cũng phải mạnh dạn phô bày những việc làm của tăm tối và tội lỗi để được ơn Chúa và Nguồn Sáng thanh lọc. Phaolô hiểu rõ tâm lý ngại ngùng và khó khăn của vấn đề: dù có ngại, có xấu hổ để ôn lại ký ức, để duyệt xét lại tội lỗi tâm linh, thì đó là việc làm rất cần thiết. Mọi việc khi đưọc phơi bày sẽ hiển lộ; khi đã hiển lộ sẽ là chính ánh sáng, là thiện hảo.

Câu truyện dài với nhiều chi tiết ly kỳ về việc Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, là trọng điểm Thánh kinh hôm nay. Nói đến ngũ giác con người, ta phải đồng ý rằng giác quan nào cũng quan trọng và đặc biệt, để giúp chúng ta sống phong phú đúng đời sống con người. Thính giác và thị giác còn là những giác quan đặc biệt hơn của sinh vật cao cấp. Ngoài công dụng thiết yếu cho nhu cầu bảo tồn đời sống, "thính & thị" còn cho ta cơ hội học hỏi, thưởng thúc sự phong phú của nghệ thuật, làm con người trổi vượt và tiến bộ vô cùng giữa muôn ngàn sinh vật. Thời nay chúng ta nghe nhiều về phương pháp thính thị (audio & video). Audio và Video là 2 động từ Latinh nghĩa đen là "tôi nghe", "tôi thấy"

Bị mù lòa là sự thiệt hại và mất mát vô cùng to lớn. Theo quan niệm người xưa trong thánh kinh, mù loà cũng như nhiều bệnh hoạn ghê gớm khác được gán cho là hậu qủa bị Trời phạt, do chính mình phạm tội hoặc gia đình, tổ tiên phạm tội. Không lạ gì, các môn đệ Chúa hỏi Ngài rằng anh thanh niên bị mù là do tội của anh ta hay của gia đình cha mẹ. Chúa xác định không phải do anh mà cũng không bởi cha mẹ anh, mà chỉ là "cơ hội" cho thiên hạ chung quanh được "xem thấy". Chúa muốn những người có mặt chứng kiến phép lạ sẽ nhìn thấy sự hiện diện và bàn tay Thiên Chúa và mong họ sẽ được mở mắt đức tin.

Sự mù loà thể xác chỉ là diễn tả của một thực tại khác còn khốc liệt hơn, đó là sự mù loà tâm linh. Thị giác con người quá quí hóa. Mất thị giác, con người mất phương tiện lớn lao để học hỏi, để tiến bộ, để thưởng thức, để tồn tại. Cho tới bây giờ khoa học và y học chỉ có thể giúp điều chỉnh thị giác, nếu bị những khuyết điểm như: loà, cận, viễn, loạn...chứ không thể chữa một người mù bẩm sinh để có ánh sáng được. Anh thanh niên mù trong Phúc âm qủa là qúa hạnh phúc. Từ mù lòa tăm tối nay anh được Chúa chạm đến chữa lành và cho được xem thấy. Anh ta qúa đỗi vui mừng tới độ khẳng khái quyết liệt tuyên xưng lòng yêu mến và nể phục tuyệt đối với nhân vật Giêsu. Anh ta không hề sơ sệt e dè những người Do Thái đầy ghen tương và thâm hiểm. Cha mẹ anh ta thì sợ lắm, sợ chuyện "cái miệng vạ cái thân". Vì thế để trả lời người Do thái đang ngang ngược ép cung, cha mẹ anh khéo léo nói rằng: "Cháu nó lớn rồi, các bác cứ nó mà hỏi đi ..."

Phúc âm Chúa nhật này đã bắt đầu dàn dựng bối cành cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta sê cử hành trong vài tuần nữa. Các trưởng tế, biệt phái, và viên chức Do thái mưu tính giết luôn cả Chúa Giêsu và người mù đuợc chữa lành này. Vị trí và ảnh hường của các nhóm người này thực sự bị đe dọa. Sự chữa lành người mù là cực kỳ siêu phàm, kéo theo sự thán phục và tin tưởng mãnh liệt nơi quần chúng! Quả thật chưa hề có mà cũng chẳng bao giờ có, dù ở giữa thế kỷ 21 với sự ra đời của computer cao cấp, như một ngã rẽ ngoạn mục của đời sống con người ngày hôm nay.

Mù lòa thể xác chỉ là phản ảnh một thực tại của mù lòa tâm linh. Khi ta không nhìn thấy sự thật khách quan nơi vấn đề hàng ngày là ta đã mù loà hiểu biết, mù lòa tri thức. Khi ta không nhận biết và đánh giá những thực tại tâm linh, là ta đã mù loà đức tin, mù lòa tâm linh. Chúa Giêsu đến để làm chứng về Thiên Chúa Cha và mong cho người ta qua Ngài nhận biết Cha. Chúa Giêsu không cần ta nài xin vẫn tự nguyện chữa lành ta, giúp ta được thấy. Trong nhiều câu truyện chữa lành trong Phúc âm, người ta phải xin rồi Chúa mới chữa cho. Trong trường hợp người mù này, Chúa chủ động đến với người mù và chữa anh ta. Đọc kỹ đoạn Thánh kinh này, ta thấy Ngài muốn chữa để những người khác được "thấy". Nghe thì thật tức cười: chữa mắt mù người này mà có mục đích cho những người khác được "thấy".

Oan nghiệt thay: trước dấu lạ, phép lạ nhãn tiền như vậy, nhóm biệt phái và đầu mục Do Thái lại quyết tâm chối bỏ, cố gây khó dễ, và âm mưu giết cả Giêsu lẫn người mù đã được chữa lành. Đó là chiêu giết người bịt miệng, diệt đối thủ, diệt luôn nhân chứng. Chấp nhận phép lạ này nhóm viên chức Do thái này hiển nhiên chấp nhận tầm ảnh hưỏng quan trọng của ngôi sao đang lên Giêsu ( a rising star); là chấp nhận mình bị yếu vai vế, bị mất đặc quyền đặc lợi... Ngược lại, người mù được chữa lành và dân chúng đơn thành thì hết lòng tin vào ông Giêsu. Đối chiếu trong cuộc đời, trong cuộc sống đức tin, có những điều nhãn tiền nhưng ta vẫn không thấy. Có những dấu chỉ của Chúa rất rõ ràng nhưng vì tác động và áp lực của đam mê, của tội lỗi ta vẫn cố tìm cách chối bỏ Chúa và tiếng Chúa.

Mù lòa thể xác chỉ phản ánh phần nào sự mù lòa tâm linh là thứ mù loà tàn hại và thê thảm hơn. Xin Chúa ban sức mạnh để con vượt qua đam mê và tội lỗi, để được sáng và được thấy. Xin ân sủng mùa Chay thánh giúp con đến gần Chúa và được thấy!

Giữa cõi u minh, cặp mắt loà.
Ngài thương chạm mở, thấy ngàn hoa.
Tâm linh mù tối, dọi nguồn sáng.
Chúa chữa tim con, lòng bão hòa.

Des Moines, IOWA

ĐỨC TIN NGƯỜI MÙ
Ga 9, 1 - 41
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Có một người kia sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có : "Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào". Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói : "Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi". Nhưng có người nói với anh : "Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy". Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn : "Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi".

Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người : Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa".

Thấy anh tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh : "Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế ? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng ? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không ? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng :"Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi". Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối".

Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở Ấn Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn : trong khi mù và sau khi được sáng, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hui buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pha-ri-sêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pha-ri-sêu. Đôi mắt thân xác của người mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pha-ri-sêu có đôi mắt thân xác không mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin : anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pha-ri-sêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.

Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù loà thì y khoa có thể dùng một loại ra-đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.

Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pha-ri-sêu là những người mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói : "Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù". Chúng ta thường nói về những người cố chấp : "Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe", thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần : "Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem".

Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không ? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư ? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư ? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không ?

Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh ta mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.

CHÚA VẪN TRUNG THÀNH MÃI
Ga 9, 1 - 41
Lm Vũ Xuân Hạnh
Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà thôi. Đó là tâm tình của tôi khi suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bị mù mắt từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhận IV mùa Chay. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ có một đường lối đó là trung thành ngỏ lời với con người. Người sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa. Tắt một lời, Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Người không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.

Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa... Càng là những người kiêu ngạo, nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức bao nhiêu, có khi lại là kẻ chống đồi Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.

Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này đã mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa. Còn với các đạo sĩ, những người ngoại giáo, chỉ bằng một ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải. Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ đã hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.

Cũng là một cách tỏ mình, có lẽ còn thế giá hơn sự tỏ mình bằng một ánh sao cho ba nhà đạo sĩ, đó là việc hoàng triều Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem được các đạo sĩ đến với mình, mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời với Hêrôđê và cả Giêrusalem. Gọi là cách tỏ mình "thế giá", bởi một ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là một ánh sao. Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng là những con người. Thiên Chúa đã dùng chính bản thân những nhà đạo sĩ để mời gọi cả hoàng triều Hêrôđê. Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.

Nhưng thật đáng tiếc cho Hêrôđê và tất cả những người thuộc về ông! Bởi tất cả đã không có một chút mảy may nào muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ lời với mình. Thật chua chát làm sao, bởi Hêrôđê và quần thần của ông không phải là những người ngoại giáo, không phải là những người ở xa xôi, hẻo lánh, tận trời Đông nào đó như các đạo sĩ, nhưng là ở rất gần nơi Thiên Chúa làm người vừa giáng sinh. Họ cũng không phải là những người nghèo dốt nát như các mục đồng, nhưng có đầy đủ mọi phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Thánh Kinh luôn luôn vây quanh để sẵn sàng giải thích Thánh Kinh; phương tiện vật chất có dư thừa..., lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.

Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương. Họ chỉ có mỗi bản thân của mình mà thôi. Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu. Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Ông đã đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần đã vậy, ông còn sợ Người tranh giành ngai vàng của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Người. Không có Thiên Chúa trong lòng mình, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Bởi vậy, dù không thể giết chết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê cũng đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa lành đôi mắt cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhật thứ IV hôm nay, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.

Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: "Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi", và nói về anh mù được chữa lành: "Mày sinh ra trong tội". Còn chính bản thân họ thì sao? Khi khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái đã cố tình để lộ một khẳng định về chính họ: họ là kẻ trong sạch, là người thuộc về Thiên Chúa. Chính miệng họ nói lên điều đó: "Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Nhưng ngay trong chính lời khẳng định mình là "môn đệ của Môisen", là kẻ thuộc về Thiên Chúa, đã cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!

Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn lao. Bởi người "tội lỗi" lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười. Còn "người sinh ra trong tội" lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém. Trong khi đó, những kẻ "vô tội" lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù là dấu lạ nhỏ nhất. Đó mới thực sự là điều mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta biết ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay từ bây giờ, sẽ luôn luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ và cảm thông.

Hóa ra người mù lại sáng, còn kẻ sáng lại mù. Anh mù được chữa lành có một đôi mắt tâm hồn sáng đến lạ thường. Đôi mắt ấy chính là đức tin mà anh đã đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù đã giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa lành cho mình: "Đó là một tiên tri". Và khi đối diện với Chúa Giêsu, anh đã tuyên xưng: "Lạy Thầy, tôi tin".

Trong khi khẳnh định về Chúa như thế, anh cũng đã vạch trần cái đui mù của người biệt phái: "Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá, lý luận của anh chắc chắn quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận Người.

Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm như trên. Đứng trước quyền lực của tôn giáo và của xã hội thời ấy, chính đôi mắt đức tin đã cho anh lòng kiên trung không một chút sợ sệt. Anh khẳng khái để lên tiếng một cách dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình có thể gặp nguy hiểm, cuộc sống có thể mất bình an. Chẳng hạn anh đã nói: "Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy"; "Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng"...

Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi mà thôi. Chúa đâu có đòi hỏi điều gì cao xa, hay vượt quá sức mình. Người chỉ cần một chút thiện chí của ta thôi là đã có thể trở thành điều kiện tốt để Người đến với ta. Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ có con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta mới là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa. Chúa luôn luôn mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình, để khỏi đón nhận mạc khải của Người. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta là không ngừng phản bội.

Sau cùng, chúng ta hãy mượn lời thánh Augustinô, để cùng thánh nhân nguyện xin Chúa ban cho mình thoát khỏi tình trạng mù lòa của tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hảm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.

ĐỨC GIÊ SU, ÁNH SÁNG CHO NIỀM TIN
Ga 9, 1 - 41
Lm Trần Thanh Sơn

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa một người bị mù từ thuở mới sinh. Mới nghe qua, chúng ta thấy có vẻ không có gì khác với các phép lạ khác mà Đức Giêsu đã làm. Tuy nhiên, đối với thánh sử Gioan, việc Đức Giêsu làm phép lạ không chỉ đơn thuần là một phép lạ, nhưng đó là một dấu chỉ, để từ đó khơi dậy niềm tin và củng cố niềm tin cho các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay. Điều này đã được chính vị thánh sử quả quyết trong lời kết sách Tin mừng của mình: "Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ Danh Ngài" (Ga 20, 31; x. Ga 2, 11).

1. Bóng tối và ánh sáng:Trở lại với câu chuyện trong bài Tin mừng: Khi ấy, trên đường đi, Đức Giêsu thấy một người mù từ khi mới sinh đang ngồi xin ăn bên vệ đường. Ngay lập tức, các môn đệ lên tiếng hỏi Ngài: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, y hay cha mẹ y, khiến y bị mù từ thuở mới sinh?".

Một câu hỏi hết sức tự nhiên, và có lẽ cũng là vấn nạn cho mỗi người chúng ta hôm nay trước các mầu nhiệm của sự dữ. Chúng ta vẫn không thể nào hiểu nổi tại sao nhiều người lành vẫn luôn gặp nhiều thử thách, trong khi có những kẻ đang sống cuộc sống vô luân, vẫn nhởn nhơ "ngoài vòng pháp luật". Tuy nhiên, khi hỏi Đức Giêsu: "Ai đã phạm tội", chúng ta thấy: các môn đệ đã không qui trách mọi sự cho Thiên Chúa, nhưng cũng đã nhận ra rằng: tội chính là nguyên nhân của mọi đau khổ. Vấn đề ở đây là tội của ai: Tội của người mù hay tội của cha mẹ anh. Nhưng ngay khi đặt vấn đề như vậy, các môn đệ cho thấy rằng dù con mắt thể lý của họ sáng, nhưng con mắt đức tin của họ vẫn chưa thật sáng. Đức Giêsu đã trả lời cho họ: "Không phải y, cũng chẳng phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y". Khi nói như thế, Đức Giêsu không phủ nhận hậu quả của tội, nhưng Ngài muốn nhắm tới một việc xa hơn. Cho dù đó là tội của ai đi chăng nữa, nhưng nếu có lòng tin vào Ngài, và hoán cải, thì tất cả sẽ được chữa lành và cứu sống, bởi Đức Giêsu đến trong thế gian không phải để kết án, "nhưng để nhờ Ngài mà thế gian đựơc cứu" (Ga 3, 17). Chính lúc Thiên Chúa chữa lành những điều đã hư mất như thế, là một cách thế làm cho Danh Ngài càng được tỏ rạng, vì việc sửa chữa luôn luôn khó hơn là làm cái mới.

Tiếp tục theo lời kể của thánh Gioan, chúng ta thấy ngay sau khi người mù này được chữa lành, thì lập tức xảy ra nhiều cuộc tranh luận khác nhau. Trước hết là của những người láng giềng của người mù: Người thì nói đúng là anh ta; có kẻ lại bảo là một người khác giống anh ta. Còn anh ta thì bảo: "Chính tôi đây". Nghe những tranh luận này, chúng ta cũng không biết ai là người mù thật.

Kế đó là những người Biệt phái, những người tự hào là thông thái, sáng suốt nhờ hiểu biết lề luật. Đối với họ Đức Giêsu "không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Còn người mù thì quả quyết: "Đó là một tiên tri". Như thế, anh mù đã dần dần nhận ra chân tính của Đức Giêsu nhờ việc anh ta được chữa lành và còn nhờ việc anh lắng nghe ý kiến của những người xung quanh: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?". Còn những người Biệt phái vì mãi lệ thuộc vào những luật lệ cứng ngắc, nên đã không nhận ra căn tính của Đức Giêsu. Họ vẫn đang ở trong tối tăm, còn anh mù đã từng bước đi vào nơi ánh sáng. Và cuối cùng khi bị những người Biệt phái đuổi ra ngoài, anh lại được Đức Giêsu đón gặp, và trong lần gặp gỡ này, anh đã lớn tiếng tuyên xưng: "Lạy Thầy, tôi tin". Gặp được Đức Giêsu, anh đã được chữa lành cả thể xác lẫn tâm linh. Anh đang thực sự bước đi trong ánh sáng của đức tin, ánh sáng ban sự sống của Đức Giêsu Kitô.

2. Bước đi trong ánh sáng của Thiên Chúa:Một người tự biết mình là "mù từ thuở mới sinh", lúc đầu chỉ biết rằng: người làm cho mình được thấy là một người mang tên Giêsu nào đó, và rồi từng bước một, nhờ chính những tranh luận của những người chung quanh và nhất là nhờ tác động trực tiếp của Thiên Chúa, anh đã nhận ra Đức Giêsu chính là "một tiên tri". Và cuối cùng anh đã tin rằng: Đức Giêsu chính là "Con Thiên Chúa".

Trong khi đó, những người láng giềng, hàng ngày đều thấy anh, giờ đây, vì cứ mãi cố chấp trong những định kiến của mình, nên không nhận ra được anh chính là người mù trước kia. Và ngay cả những người Biệt phái cũng không hơn gì. Họ cứ mãi dựa vào những luật lệ cứng ngắc, vô hồn, tự lấy mình làm khuôn mẫu cho mọi người, nên cũng không nhận ra Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, bởi lẽ: "Không ai có thể mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa mà đến". Những người này vẫn nhìn, nhưng họ không thấy.

Và không chỉ là đám dân Do thái, và những người Biệt phái khi xưa, mỗi người chúng ta ngày hôm nay cũng có thể đang "bị mù". Chúng ta sẽ trở nên mù khi chỉ dựa vào vẻ bên ngoài để đánh giá anh chị em của mình. Đành rằng, vẻ bên ngoài cũng biểu lộ một phần nào con người bên trong của mỗi người, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cha ông chúng ta vẫn thường nói: "Hoạ hổ, hoạ bì, nan hoạ cốt; tri nhân, tri diện bất tri tâm", "biết người, biết mặt, không biết được tâm hồn". Ngay cả ngôn sứ Samuel, khi vừa vào đến nhà của Isai, ông cũng đã bị lầm lẫn bởi vẻ bên ngoài của Eliab, ông thưa với Thiên Chúa: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?". Nhưng Chúa đã phán với Samuel rằng: "Đừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn".

Thiên Chúa không xem xét theo kiểu của con người. Ngài không đánh giá và phán xử chúng ta theo những điều chúng ta thực hiện bên ngoài. Dưới ánh sáng của Thiên Chúa chẳng có gì dấu kín mà không bị lộ ra. Ánh sáng của Thiên Chúa soi dọi đến tận cõi thâm sâu trong tâm hồn của mỗi người chúng ta, và Ngài thấu suốt mọi ngõ ngách, biết rõ từng ý nghĩ, từng toan tính trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.

Do đó, để có thể nhìn thấy rõ, và không bị lầm lẫn, mỗi người chúng ta cần bước đi dưới ánh sáng của Lời Chúa. Chúng ta cần đến với Đức Giêsu là Nguồn sáng thật. Chính Đức Giêsu đã khẳng định: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Đức Giêsu từ ngày lãnh nhận phép Rửa, mỗi người chúng ta đã thoát ra khỏi bóng tối của sự chết. Do đó, theo lời dạy của thánh Phaolô, chúng ta "hãy ăn ở như con của sự sáng". Và thánh nhân còn nói thêm: "Hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì... Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn". Chúng ta hãy sống sao để "Ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống không hổ với đất".

Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa mở con mắt tâm hồn của chúng ta, để chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa trong cuộc đời mình, và nhận ra hình ảnh của Chúa nơi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tin tưởng đặt trọn cuộc đời của chúng ta trong tay Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Trong niềm xác tín đó, giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.

THIÊN CHÚA LÀ ÁNH SÁNG
Ga 9, 1 - 41
Sr Mai An Linh, OP

Chủ đề xuyên suốt của Chúa Nhật IV Mùa Chay năm A này là : Chúa Giêsu là ánh sáng. Anh sáng chiếu soi để cho tiên tri Samuel có thể nhận ra người mà Thiên Chúa tuyển chọn làm vua Israel là David, cũng chính ánh sáng ấy đã dẫn đưa dân thành Ephêsô từ nơi thâm u tối tăm của sự chết là tội lỗi trở thành con cái ánh sáng trong giếng Rửa Tội. Và Đức Kitô đã truyền ánh sáng từ nơi mình sang cho anh mù bẩm sinh để anh được nhìn thấy Đấng ban sự sáng cho mình mà đi theo và loan truyền tình thương của Chúa.

Theo quan niệm của người Do Thái xưa vẫn cho rằng : Những gian nan khốn khó người ta gặp phải là do tội lỗi nên bị Thiên Chúa phạt, vì thế anh mù trong Tin Mừng hôm nay thuật lại, cũng không thóat khỏi ánh mắt không thiện cảm của những người chung quanh và cả những người thân. Cha mẹ coi anh như một của nợ nên đẩy anh ra khỏi nhà, không chia sẻ số phận hẩm hiu của anh, nên đã không đi tìm Chúa Giêsu để xin cứu chữa và cũng không cám ơn Chúa khi con được khỏi bệnh, cũng không bênh vực khi anh bị chất vấn. Cho nên khi anh được khỏi mù, anh đã không chạy về với cha mẹ. Còn những người láng giềng không nhận ra anh phải chăng anh đã bị người ta quên lãng ? Và những người thường gặp anh ăn xin thì không vui khi anh được sáng mắt, có nghĩa là họ không cảm thông chia sẻ với anh. Cả các môn đệ khi thấy anh bị mù họ cũng cho anh là người có tội hay cha mẹ anh, họ không thương xót, không cảm thông, cứu chữa. Qủa thật, anh mù rất cô đơn, vô cùng đau khổ trong kiếp sống tàn tật ăn xin, bị mọi người bỏ rơi, nguyền rủa.

Trong khi đó Chúa Giêsu không kết án, không qui tội mà cứu chữa anh, đã đưa anh đến miền ánh sáng của đức tin. Thật vậy :

1/ Anh mù đã tin một người là Giêsu đã mở mắt anh :
Anh nhận ra Chúa Giêsu khác hẳn những người khác : " Người tên là Giêsu đã trộn ít bùn, xức vào mắt...tôi đi rửa và tôi nhìn thấy được"(c.11), một ông Giêsu quyền năng, vì chưa bao giờ người ta nghe nói là có ai mở mắt cho kẻ mù từ lúc mới sinh, thế mà ông Giêsu làm được như thế. Ông Giêsu đã yêu thương, ông không lên án mà cứu chữa (x.c.32). Còn những người khác chẳng những bất lực mà lại không có tình thương. C.32 cho thấy con người khoanh tay trước bệnh mù bẩm sinh. Mọi người chẳng những khoanh tay bất lực mà còn thiếu tình thương, chỉ biết lên án.

2/ Anh mù nhận ra Chúa Giêsu là ngôn sứ :
Người Biệt Phái không nhất trí với nhau về lai lịch của người đã chữa anh mù, vì Chúa Giêsu đã chữa anh vào ngày Sabat nên Chúa Giêsu không phải do Thiên Chúa vì không giữ ngày hưu lễ, nhưng có người lại nhấn mạnh đến việc Chúa đã chữa người mù nên Ngài không thể là có tội được. Còn anh mù thì lý luận : " Nếu không phải người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm gì được"(c.33) nên anh cương quyết xác nhận"Người là một vị ngôn sứ" (c.17b).

3/ Anh mù nhận ra Chúa Giêsu là người do Thiên Chúa :
Cuộc tranh luận và thái độ của những người Biệt Phái làm cho anh mù càng xác tín và thách thức họ " hay các ông cũng muốn là môn đệ ông ấy"(c.27b), lời nói của anh nhìn nhận Chúa Giêsu là một bậc thầy trên cả những người Biệt Phái, đi một bước xa hơn nữa là anh đã cho họ một bài học : " chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi ...xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh, nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến"(c.31-33). Khi anh được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt thì anh trở thành ánh sáng của Ngài, trở thành dấu chỉ sáng chói của Ngài. Chính vì điều này mà sau đó người ta xua đuổi anh.

4/Người mù được Đức Giêsu cho biết Ngài là Con Người và anh đã tin :
Người Do Thái xua đuổi anh, còn Đức Giêsu thì tiếp nhận anh, điều đó cho thấy Chúa Giêsu luôn luôn là người đi bước trước, "Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và đi tìm gặp anh"(c.35). Trên hành trình đức tin phải có bước khởi đầu xuất phát từ Thiên Chúa. Và chính hành động này làm cho người mù có so sánh : Những người mệnh danh là cha mẹ dân thì xua đuổi anh trong khi Chúa Giêsu là người bị họ coi là người tội lỗi lại đón tiếp anh, cho nên niềm tin của anh vào Ngài càng lớn mạnh. Vì thế, khi nghe Chúa Giêsu hỏi : "anh có tin vào Con người không ?...chính Người đang nói với anh"(c.35b-37) thì anh sẵn sàng tuyên xưng đức tin " Thưa Ngài tôi tin". Liền đó anh sấp mình xuống trước mặt Người, lời nói và cử chỉ của anh chứng tỏ anh nhìn ra Đức Giêsu Thiên Chúa.

5/Sứ điệp Tin Mừng :
Chúa để xẩy ra đau khổ, tật nguyền để con người nhận thấy giới hạn của mình, và để liên đới sự đau khổ, khuyết tật của người khác cũng là đau khổ, khuyết tật của mọi người, nhờ đó sẽ kích thích cho con người tìm phương pháp cứu chữa, xoa dịu.Thái độ của chúng ta đối với đau khổ, tật nguyền, tội lỗi, bị xã hội khai trừ là một sự cảm thông đem tình thương Chúa đến cho họ, đây là một lời mời gọi hằng vang lên, thúc bách ta phải thi hành sứ mạng.Việc Chúa Giêsu không giữ ngày hưu lễ mà lại chữa anh mù bẩm sinh khỏi bệnh, cho chúng ta thấy Ngài có quyền trên lề luật(x.Lc.13,10-17) và Ngài đã đặt lề luật bên dưới con người (x.Mc.2,28). Qua đó, ta hiểu được Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương con người.Chúng ta thử xét xem, trong cuộc đời trên đường chúng ta đi có khi nào chúng ta xua đuổi ánh sáng được Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta không ?Chúng ta dùng bài này để cầu nguyện như thế nào ? và quyết sống ra sao ?

Lạy Chúa, là ánh sáng trường tồn bất biến, xin cho chúng con không cố chấp ngồi lì trong bóng đêm tội lỗi, nhưng biết nhận ra tình trạng đui mù tâm hồn của mình mà khiêm tốn, can đảm đi đến suối Siloe là Đức Kitô bằng lòng tin, lòng ăn năn sám hối và yêu mến để được dẫn vào nguồn sáng Phục Sinh của Chúa, hầu được hưởng ơn cứu độ.

NHỜ ÁNH SÁNG CỦA NGÀI...
Ga 9, 1 - 41
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Chúng ta đang ở trong dịp lễ Lều là một trong những Đại lễ của người Dothái. Đây là lễ không chỉ giúp người Dothái ôn lại biến cố Xuất hành khi cha ông họ sống trong các lều trại ở sa mạc mà còn là dịp để cảm tạ Giavê Thiên Chúa về hoa mầu do ruộng đất mang lại. Dịp Đại lễ này, nước và ánh sáng là hai yếu tố quan trọng nhất làm nên nghi lễ bế mạc. Chúa Giêsu muốn dùng dịp này để minh chứng chính Người là Anh sáng thật, xuất phát từ Thiên Chúa khi làm cho anh mù từ thưở sơ sinh được thấy.

Người xưa quan niệm rằng bệnh tật là hậu quả do tội lỗi mang lại. Chính vì thế, khi gặp người mù từ thưở sơ sinh, các môn đệ không thể lý giải nổi. Bởi nếu anh bị mù từ trong dạ mẹ thì lỗi đó do ai, bố mẹ hay anh? Các thầy Dothái thì cho rằng đó là do tội của bố mẹ. Thế nhưng cũng có người cho rằng chính anh ta khi còn nằm trong bụng mẹ đã phạm tội. Vì thế, các môn đệ muốn Chúa Giêsu có ý kiến về vấn đề này.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu không bình phẩm, cũng không đưa ra một giả thuyết nào. Điều Người quan tâm chính là tình trạng bệnh tật của người mù, Người giúp để anh được nhìn thấy không chỉ ánh sáng mặt trời mà còn nhìn thấy ánh sáng đức tin phát xuất từ Thiên Chúa.

Chúa Giêsu lấy nước miếng luyện bùn để đắp lên mắt người mù. Thánh sử Máccô trong trình thuật của mình nói rằng Chúa Giêsu nhổ nước miếng và đặt tay vào mắt anh chứ không luyện bùn như trình thuật của Gioan. Điều này mang ý nghĩa gì? Chúng ta biết người xưa tin rằng trong nước miếng có dược chất có thể chữa lành bệnh. Chính sử gia Tacitus cũng đã ghi lại những dấu lạ chữa lành bệnh bằng nước miếng. Còn thánh Irênê đệ Lyon thì cho rằng cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện nơi người mù chính là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa muốn làm cho thân xác của Ađam (vốn từ bùn đất) được nên hoàn thiện. Dù thế nào đi nữa, chính nước hồ Silôác- tượng trưng cho lề luật và đức khôn ngoan đến từ Thiên Chúa mà truyền thống Dothái giáo từng quan niệm, có khả năng làm cho người mù được sáng.

Anh mù được nhìn thấy. Niềm hạnh phúc tưởng chừng được lan truyền để mọi người cùng chung vui với anh, khốn thay, lại trở thành duyên cớ khiến anh gặp không ít phiền toái từ phía dân chúng cũng như mấy ông lãnh đạo tôn giáo. Nhưng đó cũng chính là hành trình để anh dần nhận ra niềm tin của mình và nghiễm nhiên trở thành người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.

Láng giềng thì nghi ngờ không biết anh có phải là anh mù thường hay mày mò đi ăn xin không. Không một chút giấu giếm, anh tường trình cho họ nghe những gì đã xảy ra với anh liên quan đến một người tên là Giêsu. Có lẽ vì không tin hay vì cần phải trình báo trường hợp này cho mấy ông thông luật suy xét mà láng giềng đã đưa anh đến với người Pharisêu.

Điều dễ thấy nơi mấy ông Pharisêu là họ nhìn ra ngay "tội đồ" của người đã cho anh sáng mắt. Thật vậy, cứ chiếu theo luật Môsê, Chúa Giêsu đã vi phạm ít nhất hai tội. Trước hết là tội chữa bệnh ngày Sabát khi không có lý do nguy tử. Rõ ràng là anh mù đâu phải trường hợp nguy tử như luật định. Thứ đến là tội dám luyện bùn đất là một trong những điều cấm trong ngày Đại lễ để chữa bệnh. Người Pharisêu không chỉ lên án hành động này của Chúa Giêsu, họ còn muốn lôi kéo anh mù về phe họ hay ít nữa là cũng nghĩ như họ. Tuy nhiên, anh không bị cuốn hút vào những âm mưu đó. Anh trình bày sự việc như nó vốn có. Anh không thêm bớt, anh chỉ cho họ thấy rằng tình trạng trước đây của anh là mù, nhưng nay, nhờ có Người, anh được sáng. Người Pharisêu và dân chúng suy nghĩ thế nào tuỳ họ, riêng anh, người đã chữa anh khỏi mù chính là "một vị Ngôn sứ".

Không dừng lại ở đó, chúng ta còn thấy anh mù đã mạnh dạn tranh luận với người Pharisêu về Chúa Giêsu. Có lẽ anh không hiểu ý đồ của họ nên cứ tưởng rằng việc họ tìm hiểu xuất phát từ thiện ý muốn làm môn đệ Người. Vì thế anh không ngần ngại giới thiệu về Người. Hậu quả của việc làm đó, anh đã bị nhóm Pharisêu lên án và trục xuất ngay lập tức. Lý do đơn giản vì họ không chấp nhận người như anh làm thầy họ. Cuối cùng, niềm tin của anh trở nên trọn vẹn khi người đã chữa anh mạc khải cho anh biết chính Người là Đấng Thiên sai.

Chúa Giêsu chính là Anh sáng đích thực. Chính Người đã mang đến cho người mù niềm vui được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của vũ trụ- điều mà trước đây anh hoàn toàn không hề biết. Quan trọng hơn, anh còn được Chúa mở đôi mắt tâm hồn để anh nhận biết Đấng là Anh sáng phát xuất từ Thiên Chúa mà hôm nay chính Người đã mạc khải chân tính của Người cho anh là kẻ hèn mọn.

"Lạy Chúa, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng còn được nhìn thấy ánh sáng" (Tv 35, 10). Xin cho mỗi người chúng ta cũng được Anh sáng Chúa chiếu soi để mắt tâm hồn chúng ta mở ra, đón nhận và tạ ơn về những ơn lành Thiên Chúa đã, đang và sẽ thực hiện giữa lòng nhân loại.

NGUYỆN VỌNG CỦA NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH.
Ga 9, 1 - 41
Nguyễn Văn Thành

Tôi là một người mù từ thuở mới sinh. Sáng nay, Đức Kitô đã làm cho mắt của tôi được THẤY trở lại, như một người bình thường, không bao giờ mang tật nguyền gì...
1. - Bao nhiêu năm sống trong cô đơn và khổ đau, suốt ngày đi ăn xin từ xóm làng này qua xóm làng khác. Từ đây, trở lại với xã hội loài người, tôi chỉ ước mong được cư xử và đãi ngộ như một con người có giá trị bình thường như mọi người. Có lời ăn tiếng nói, khi tiếp xúc và trao đổi. Được lắng nghe và coi trọng, khi tôi cất lời phát biểu, trình bày ý kiến riêng tư của mình. Khi được mọi người xác nhận phẩm chất làm người như vậy, tự nhiên tôi " vươn lên, hướng thượng ", cố gắng đóng góp phần mình, khi anh chị em bà con cần đến tôi.

2. - Ngoài ra, khi tôi có những hành động sai trái, lầm lỡ...ước vọng của tôi là được anh chị em hai bên cạnh trở nên cho tôi một ngọn đèn hướng dẫn và nâng đỡ, sẵn sàng chỉ bày cho tôi một cách cụ thể và rõ ràng tôi phải điều chỉnh thế nào hành động và ngôn ngữ của tôi. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là một sai lầm, trái lại đã trở nên cho tôi một bài học cao quí, khả dĩ xây dựng cuộc đời và làm đẹp bộ mặt của tâm hồn.

3. - Nhu cầu thứ ba của tôi là có người dạy bảo những bài học ĐÁNH GIÁ , bằng cách chia sẻ và giải bày những định chuẩn rõ ràng và khách quan. Dựa vào đó, tôi xác định vị trí hay là chỗ đứng của tôi, trong lòng xã hội hay là trong lãnh vực nghề nghiệp.Cuộc sống bình thường luôn luôn có trên có dưới, có trước có sau, có trong có ngoài. Không ai dạy cho tôi những bảng thang giá trị hay là những qui luật ấy, tôi chỉ là hạt cát phiêu lưu, bất định " vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo ".

Thay vì mang đến cho tôi ba quà tặng cao quí ấy - là xác nhận giá trị, hướng dẫn hành động và đánh giá cuộc sống - nhằm xây dựng bản thân và cuộc đời hằng ngày cho tôi... những người mà tôi gặp trên mọi nẻo đường đó đây chỉ tung ra " những lời tố cáo, phê bình, chỉ trích, mạ lị và chưởi bới " :

" Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ? "

Với thái độ trịch thượng ấy, thay vì đón nhận và yêu thương tôi, họ đã trục xuất, khai trừ, loại thải tôi ra khỏi cung lòng của họ.

Hỡi ai là người Kitô-hữu - có nghĩa là Đức Kitô thứ hai, Alter Christus - thay vì xua đuổi tôi, hãy lấy một ít bùn đất, trộn với nước miếng của quí bạn, và đụng đến hai con mắt Đức Tin của tôi, để cho tôi có thể " nhìn thấy Mặt Trời Công Chính ", trong tất cả cuộc đời còn lại của tôi. Hãy có gan " làm phép lạ ", để cho tôi ngày ngày trở nên con cái của Thiên Chúa.

CON MẮT LÀ CỬA SỔ CỦA LINH HỒN
Ga 9, 1 - 41
Lm Phêrô Trần Minh Đức

Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù lòa, cụt tay, cụt chân!... Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù lòa là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể nào hình dung ra được!

Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ thuở mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt, nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!

"Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối." Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.

Bài Phúc âm cũng phản ánh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù, nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy.

Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây?

Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh đầu đường xó chợ, phải đi bới rác để sống qua ngày. Thực tế cho thấy, còn có nhiều cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù lòa gấp ngàn lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.

Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta.

Qua bí tích Rửa tội, Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn vẻ muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.

CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG
Ga 9, 1 - 41
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Ki-tô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giê-su là sự sáng cho trần gian.

I. ĐỜI NGƯỜI CÓ HAI NỖI KHỔ:
Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.

Ánh sáng như vậy rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.

Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.

II. CHÚA GIÊ-SU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ BẨM SINH:
Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1 - 41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giê-su đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giê-su lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời.

Chúa Giê-su đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giê-su vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giê-su. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giê-su đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " ( Ga 1, 32 - 33 ).

Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giê-su, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không ?" ( Ga 1, 35 ). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" ( Ga 1, 38 ). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người.

Phép lạ Chúa Giê-su làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giê-su ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giê-su như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.

III. DIỄM PHÚC VÀ BỔN PHẬN CỦA TA
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " ( Tv 23, 4 - 5)

Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đa-vít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.

Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l" histoire vraie" ( Cent. 1994, trang 364 ) để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giê-su làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giê-su, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giê-su nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN
Ga 9, 1 - 41
Gm Giuse Ngô Quang Kiệt

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt. Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người họa sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt họa sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Si-lô-ê rửa theo lời dạy của Đức Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ. Rửa nước giếng có gì tốt đâu ? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Đức Giêsu. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Đức Giêsu dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dấn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Si-lô-ê rửa bùn đất mà Đức Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn : Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố : Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh ruớm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Đức Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Đức Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Đức Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Đức Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Đức Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người : "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi". Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng : "Ngài thật là vị tiên tri". Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định : "Người từ Thiên Chúa mà đến". Và sau cùng anh đã nhận Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa".

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng.

Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Đức Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi ? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không ?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Đức Kitô. Ngày rửa tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa ?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Đức Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
Ga 9, 1 - 41
Lm Bùi Mạnh Tín

Câu chuyện về một người mù được Chúa cho sáng mắt đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề. Một vấn đề cần suy nghĩ ở đây, đó là tính kiêu căng cố hữu nơi con người, một sự kiêu căng đã mang đến bao tai hại cho cá nhân, gia đình và xã hội về nhiều phương diện.

-Có tội, nhưng không bao giờ nhận mình có tội.
-Bất lực nhưng vẫn tưởng mình có đầy khả năng.
-Tối tăm mù lòa nhưng lại cho mình sáng suốt thông minh.


Khi chúng ta không thành thật khiêm nhượng và can đảm nhận ra sự bất lực, tối tăm và tội lỗi của kiếp người, thì không ai có thể giải thoát chúng ta được, kể cả Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta đọc thấy trong câu truyện hôm nay. Người ăn xin, mù mắt nhưng tâm trí anh ta lại sáng suốt. Anh ý thức được thân phận cùng khốn của mình và nhận ra Đức Kitô là Đấng toàn năng và từ bi, nên anh đã chấp nhận sự can thiệp của Chúa. Nhờ bàn tay Chúa, không những cặp mắt thể xác của anh có thể nhìn rõ mọi sự vật, mà tâm trí của anh càng sáng chói thêm. Nhờ tâm trí này, anh đã tin rằng người chữa mắt cho anh "là một tiên tri", bởi vì "nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm gì được." Trái lại, những anh em Biệt Phái, dù có cặp mắt sáng để đọc và nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đã không nhận ra Đấng vừa thực hiện phép lạ đó là ai. Thái độ tiêu cực này chính là một thứ mù lòa tinh thần. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã nói với những anh em đó: "Nếu anh em mù thì anh em không mắc tội; nhưng anh em nói: chúng tôi xem thấy, nên tội anh em còn đó."

Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta cũng gặp những người, tuy không sáng suốt và hiểu biết trong nhiều lãnh vực, nhưng lại có thể trở thành những ngọn đèn sáng dẫn chúng ta đến với Chúa.

Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ với mọi người câu truyện của đời cô:

Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, đôi khi nhắc lại những câu Kinh Thánh hay những lời Linh mục giảng dạy. Tôi luôn luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông. Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự Lễ Giáng Sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: "Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?", tôi im lặng... Khi chúng tôi vừa đặt chân tới của nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: "Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa." Ông hỏi: "Cháu nói thế có nghĩa là gì?" "Nội biết không, những lời Nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa Nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa."

Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp:
- Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lơp Giáo lý này.

CHÚA GIÊSU MỞ MẮT CHO NGƯỜI MÙ LÒA
Ga 9, 1 - 41
Lm Augustine S.J.

Để cảm thông được cảnh khổ của những người mù, hẵy thử hình dung xem bặn sẽ xử sự ra sao khi ánh đèn trong khu phố bạn vụt tắt.

Một buổi tối mùa đông, vào giờ tan sở, thủ đô Pari hoa lệ bị dìm vào bóng đêm do cúp điện đột xuất. Mọi người đều hốt hoảng vì không quen với bóng tối, nhất là những ai bị kẹt trong thang máy, hoặc trong các xe điện ngầm. Mới đến định cư ở Pari từ hai tháng nay, Maily cũng bị kẹt trên hè phố tối tăm của một thành phố mà cô chưa thông tỏ đường đi lối về. Cô cảm thấy lo âu, bất lực, sợ hãi. Bỗng nhiên cô vấp phải một người đi bộ phía trước vì không nhận ra người đó. Sau khi ngỏ lời xin lỗi, cô biết được chàng thanh niên đó sống gần khu phố của cô, nhưng hai người chưa từng có dịp làm quen. Cầm lấy bàn tay ấm áp của anh, cô yên tâm vì anh cứ rẽ đám đông mà đi và đưa cô về đến con ngõ trước nhà. Chính khi chia tay, Maily mới biết tại sao anh ta thuộc đường như vậy: Đó là chàng trai ấy bị mù: vì luôn sống trong tối tăm, anh ta đã quen "nhìn" sự vật hầu như nhờ "giác quan thứ sáu". Thế mới hay rằng lắm khi người mù lại tỏ ra hơn kẻ sáng mắt.

SỰ MÙ TỐI CỦA TÂM HỒN
Phúc Âm hôm nay không chỉ thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa anh mù về mặt thể lý; nhưng còn cho thấy việc Chúa mở mắt Đức tin để anh ta TIN VÀO NGÀI. Anh mù được chữa lành vì anh đã tin và làm theo lời Chúa dạy là đi rửa mắt ở hồ Silôác. Điều trái ngược trong câu chuyện này là anh mù, tuy bị mù loà, nhưng lại nhìn thấy những điều mà các người Pharisêu không thấy được: anh đă nhận ra lòng nhân lành của Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa, khác hẳn thái độ của người Pharisêu mù loà, vì họ từ chối nhìn nhận phép lạ của Chúa và khước từ tin vào Người.

Để có thể nhìn rõ mọi sự, có được một đôi mắt tinh anh thôi chưa đủ. Bởi lẽ ngoài bệnh mù loà của thân xác còn có rất nhiều dạng mù loà khác, không cho phép chúng ta tiếp nhận ánh sáng của Chúa. Đó là lòng ích kỷ ngăn cản ta nhìn thấy nhu cầu của những anh em nghèo khổ; đó là sự kiêu căng không cho phép ta nhận ra những lỗi phạm của mình; đó là những thành kiến khiến ta bị bưng bít đối với sự thật; đó là lòng ham muốn vật chất khiến linh hồn ta không còn thấy được những giá trị thiêng liêng.

Bằng đôi mắt của tâm trí và của linh hồn, ta có thể nhìn ra những điều mà đôi mắt xác thịt không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, chỉ với đôi mắt đức tin, ta mới có thể nhìn thấy được những thực tại về Thiên Chúa và về ơn cứu độ. Phúc Âm hôm nay chính yếu là chuyện kể về đức tin. Thật vậy, cao điểm của câu chuyện này là ở việc anh mù tuyên xưng niềm tin của anh vào Đức Kitô khi nói: "Lạy Ngài tôi tin!" Nhờ tin, anh đã được chữa lành cả về thể xác lẫn tâm hồn.

CHÚA GIÊSU MỞ MẮT CHO NHỮNG NGƯỜI MÙ LÒA
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ chữa tật mù loà về thể lý, mà còn chữa tình trạng mù loà tâm hồn. Loạt người thứ hai này gồm những kẻ lầm lạc, thiếu khả năng nhìn thấy đường về nhà Cha. Người đã mở mắt cho ông Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi của ông (Lc 19,1-10); Người đã mở mắt cho một cô gái lỡ đường để cô dứt bỏ với quá khứ không mấy tốt đẹp của mình (Lc 7,36-50); Người cũng đã mở mắt cho người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Người trên đồi Gôn-gô-tha, để anh ta nhận ra ánh sáng của lòng Chúa thương xót (Lc 23,32-43). Chính nhờ Chúa Giêsu, những người này đã tìm lại được ánh sáng dẫn đưa tới Nước Thiên Chúa. Ngược lại, những người Pharisêu vì cố chấp, cứng tin, nên đã bị bỏ lại trong bóng tối. Họ đã không tin nhận Chúa Giêsu, cũng không đón nhận ơn cải hoá được khơi dậy nơi lòng họ (Ga 9,41)

Cũng vậy, bằng cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đều vương phải những chứng mù loà bẩm sinh. Đó là những thói xấu và tội lỗi. Vậy chúng ta cần được Chúa Giêsu soi sáng, cứu chữa đôi mắt tâm hồn của chúng ta, từng bị mù loà do từ khước ánh sáng của Người. Chúa Giêsu luôn đến với mọi người đau yếu, tật bệnh, tội lỗi để kêu mời và giúp họ hoán cải và được chữa lành. Chúng ta hãy can đảm đến với Chúa, để Người chạm đến chỗ kín ẩn, thâm sâu nhất của lòng ta; đồng thời hãy vâng lời Người, chấp nhận đi gột rửa tâm hồn ta ở hồ Silôác thiêng liêng là Lời Chúa, trút lại đó cái mù loà của tâm hồn ta, để mặc lấy ánh sáng của Lời Chúa.

Nguồn vietcatholic.org

1791    30-03-2014 14:35:25