Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Chúa Nhật III Mùa Vọng năm Phụng Vụ B

  1. Chúa Nhật III Mùa Vọng
  2. Làm Chứng Trong Niềm Vui
  3. Niềm Vui Đích Thực
  4. Làm Chứng
  5. Làm Chứng Cho Sự Thật
  6. Chúa Nhật Hồng
  7. Khiêm Nhường
  8. Niềm Vui Thật
  9. Niềm Vui Cứu Độ
  10. Bạn Phải Là Gioan Tiền Hô
  11. Tiếng Kêu Trong Hoang Địa
  12. Sám Hối Để Đón Con Thiên Chúa Làm Người
  13. Hãy Vui Lên
  14. Tiếc Gì Một Cái Gật Đầu
  15. Chứng Nhân Cho Đức Kitô
  16. Có Một Vị Đang Ở Giữa Các Ông Mà Các Ông Không Biết
  17. Làm Chứng Về Ánh Sáng
  18. Hãy Vui Lên, Vì Chúa Đang Ở Giữa Dân Người
  19. Sống Niềm Vui Trong Ân Tình Chúa
  20. Chứng Nhân Của Ánh Sáng
  21. Sứ Mạng Làm Chứng Cho Đức Kitô
  22. Anh Em Hãy Vui Lên
  23. Hãy Sửa Đường
  24. Giá Trị Của Lễ Chúa Giáng Sinh
  25. Ông Có Phải Là Đấng Cứu Thế ?
  26. Hãy Vui Lên
  27. Đức Kitô: Niềm Vui Cứu Độ
  28. Hãy Sửa Đường
  29. Gioan Tiền Hô Sửa Đường Cho Đấng Cứu Thế Ra Sao?
  30. Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng
  31. Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng
  32. Vai Trò Của Gioan Tẩy Giả

 

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG.
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những hình ảnh giới thiệu những gì mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, vì khi qua những giây phút khó chịu đó, nó dường như có một chút gì còn lại nơi người nghe. Không chỉ có thế, còn có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng, với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy còn được goi là nhân viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra còn có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận tình.

Chúng ta vừa lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh, chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Ông biết chấp nhận sự thật, quên mình đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Ông cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp nhận những gì là của mình, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm thật chu đáo.

Những người của ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng đến với Gioan để tìm cho mình một con đường sống theo Thánh ý Chúa.

Chúng ta, những con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng của mình cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả nào không?

Mỗi người trong chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy được mình thiếu thốn về đạo đức, thiếu về lòng nhân ái, thiếu thốn về nhân cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để xin Chúa đong đầy những gì còn thiếu nơi chúng ta.

Nhìn vào gương làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống của mình thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên mình mà đến với người khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp đở nhẹ nhàng đối với những gì mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm, những gì phải làm mà không ngần ngại, cho dù nhìn thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nhìn thấy những lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của mình, chúng ta không cần đến cũng không tìm cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đã trở nên một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa. Khi đó mọi người nhìn vào chúng ta và họ cũng nhìn thấy, cũng lắng nghe được sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi đó Chúa đã đến thật sự.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống đời thường.

LÀM CHỨNG TRONG NIỀM VUI
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng của năm Phụng vụ 2014. Với Chúa nhật này chúng ta đã đi được nửa đoạn đường của mùa vọng năm nay. Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui mừng vì ngày Đại lễ Giáng sinh sắp tới. Ngày đại lễ Giáng sinh nhắc nhớ chúng ta về một niềm vui trọng đại. Niềm vui con người chúng ta được đón nhận Đấng Cứu Thế Giêsu. Niềm vui này không thể giữ cho riêng ai mà cần phải được loan báo cho nhiều người được biết.

Đoạn Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân loan báo niềm vui ấy. Chứng nhân ấy là Thánh Gioan Tẩy Giả. Mở đầu đoạn Tin mừng Thánh sử Gioan giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 6- 7). Kế đến, người Do thái muốn biết Gioan là ai thì ông đã trả lời: “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23) và “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 26b – 27).

Chính trong niềm vui mà Thánh Gioan Tẩy giả đã ý thức được vai trò làm chứng của mình. Vai trò giới thiệu làm chứng cho Đấng Cứu Thế Giêsu. Thánh Phaolô trong bài đọc 2 cũng đã kêu mời chúng ta hãy vui mừng luôn mãi (1Tx 5, 16 ). Thánh nhân cũng là một trong những người cảm nhận được niềm vui trong Chúa. Do đó, cả đời thánh nhân từ một con người căm ghét những ai tin vào danh Đức Kitô trở thành một chứng nhân hăng say rao giảng Đức Kitô.

Đấng Cứu Thế Giêsu đến trần gian này đem lại cho nhân loại một niềm vui mới. Người ta nói niềm vui đem chia sẻ thì niềm vui sẽ nhân đôi. Mỗi người chúng ta chắc chắn ít nhiều cũng cảm nhận được niềm vui mà Chúa mang đến cho mình. Chúng ta hãy đem chia sẻ niềm vui ấy cho những anh chị em xung quanh bằng cách sống theo những gì Chúa dạy. Đó là chúng ta đang làm chứng cho Người trong niềm vui.

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đã trải qua hơn nữa chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Tại sao vậy? Điều gì khiến chúng ta cần phải sống tâm tình hân hoan như thế? Vâng, chúng ta có rất nhiều lý do để vui mừng:

Trước hết, chúng ta vui mừng vì Chúa đã nhập thể làm người và đã mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chúa đã đến và đã hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường vì thấy làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn gì người khác đâu. Quả thật, nếu nhìn theo phương diện phàm trần thì được làm con Chúa không hơn và không khác gì với những người khác, thậm chí còn phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung mãn và vững chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có quyền hy vọng như thế vì Chúa đã ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của Ngài rồi thì không còn có gì mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành trình đức tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết lòng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của mình. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng của mình, chu toàn những phận vụ mà mình đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa như những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy vì ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã sống hết mình và hết tình với nhiệm vụ của mình trong sự khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đã hạ mình xuống để cho làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đã nói “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Thánh Gioan làm được điều đó vì ngài đang mang trong mình niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy tâm tình đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân cho Thiên Chúa.

Chúng ta còn phải vui mừng vì biết bao những ơn lành người đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy cũng vui vui vậy thôi. Vì nhìn Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của mình bao nhiêu: có Ngài cũng được, không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta còn nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai, bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, còn kẻ lương thiện, hiền lành thì lại sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nhìn thấy nhân tình thế thái như vậy thì làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong đời sống đức tin của chúng ta được? . . . Tất cả những điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút thôi, nếu Thiên Chúa ngưng gìn giữ vù trụ này một giây phút thôi thì tất cả sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cõi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng: nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu thì cuộc đời này sẽ vô lý, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: “Cuộc đời này buồn nôn” vô cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên Chúa tách biệt ra như “mục tử tách chiên ra khỏi dê” vậy. Vì thế, mọi việc làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa, trong cuộc sống mai sau. Có như thế thì chúng ta mới thấy phấn khởi và hân hoan tiến bước. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta rằng: “anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, " (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo chỉ vì muốn được hạnh phúc ở đời này thôi thì quả thật đức tin của chúng ta còn non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói: “phúc cho anh em khi vì Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu xa”. Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói với thánh Phêrô rằng: “Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé, Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy”. Như vậy, cuộc đời theo Chúa của từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời sống Kitô hữu của mình.

Chúng ta còn một lý do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong lòng một niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau. Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng vững chắc cho cuộc sống mai sau.

Ước gì chúng ta luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi người, hăng hái làm việc thiện, khát khao tìm gặp Chúa và tìm mọi phương thế cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.

LÀM CHỨNG
Ga 1, 6 - 8. 19 - 28

Chị Rơ Châm H'Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 ). Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm…

a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:

Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đã vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “các ông vào sa mạc tìm gì? Có phải tìm cây sậy phất phơ trước gió không? – Không. Hay có phải tìm một người ăn mặc lụa là gấm vốc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi tìm một vị tiên tri không? Đúng và còn hơn một tiên tri nữa…”(Gn 11, 7-9)

Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, vì lời thẳng thắn đã không làm hài lòng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan còn làm phật ý cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?

b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt TC, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:

  • “Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc…”(Gn 1, 20-29)
  • “Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa…”(Mt 3, 11)
  • “Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa.” (Mt 3, 14).
  • “Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…”(Gn 1, 27)

Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rõ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đã sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đã từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:

  • “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gal 2, 20). “Tôi biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12)
  • “Ước gì tôi chẳng hảnh diện điều gì, ngoài thập giá Đức Kitô.”(Gal 6, 14)
  • “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm.”(I Cor 9, 16)
  • “Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)
  • “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)

Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?

Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thánh Gioan đã là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới hôm nay không?

LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Ga 1, 6 - 8. 19 - 28

Gioan Tẩy Giả có một vai trò rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế mà Thánh sử Luca đã nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin Mừng: “ Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: ‘Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường …” (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai trò của mình, về tình thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.

1. Làm chứng cho sự thật về mình :

Gioan rao giảng và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đã nổi danh, người ta thắc mắc về vai trò của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri đã qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đã cử người đến gặp ông. Họ hỏi: “ông là ai?” Ông nói rõ : tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là Êlia nhưng là “tiếng hô trong hoang địa”. Phái đoàn này gồm những luật sĩ và biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ mình là Tiền hô cho Đấng Cứu Thế và phép rửa của ông chỉ là hình bóng cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu Thế.

2. Làm chứng cho tình thương của Chúa:

Tên Gioan nghĩa là Chúa thương. Gioan sinh ra do tình thương của Chúa đối với gia đình : sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là mình còn có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đình, và xa hơn nữa là tình thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi người nghĩ ngay đến tình thương Chúa.

3. Làm chứng về Đấng Cứu Độ đã đến trong trần gian:

Gioan khẳng định mình là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đã đến gần. Gioan nói rõ: Đấng đó đã đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời Thiên Chúa, là Sự Sáng, còn Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.

Gioan dọn đường cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về mình, về Đấng cứu thế. Đời sống khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hãy hoán cải tận đáy lòng, thể hiện đức tin của mình bằng những việc làm cụ thể như sống hòa thuận trong gia đình, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho những người làm phiền lòng mình… lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta cũng hãy nối tiếp vai trò của Gioan nhắc nhở những người xung quanh bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn luôn.

Là con cái Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai trò và niềm tin của chúng ta hiện nay trong thế giới, ý thức về bổn phận của mình đối với việc truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với tình thương của Chúa trên mỗi người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hãy biết vai trò của mình chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan Tiền Hô: để Chúa lớn lên còn tôi nhỏ đi.

CHÚA NHẬT HỒNG
Ga 1, 6 - 8. 19 - 28

Chúa Nhật hôm nay được gọi là : “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay : “Anh chị em hãy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần!...”. Niềm vui này là một niềm vui được ơn Chúa cứu độ, niềm vui được an bình, niềm vui được hạnh phúc! Vậy thì chúng ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.?

Chuyện kể rằng Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: “ Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua . Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lý do để đau khổ, buồn sầu,.. một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng thì họ cũng tìm một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mĩm cười ở giữa chợ và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo hạnh phúc của mình không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không ? Không nín được cười , người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: “ Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng Nhà Vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!”. Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!

Bài Tin mừng hôm nay Ga 1, 6 – 8 , 19 – 28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với Gioan Tiền Hô để tìm kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đã vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:

Con đường sống khổ hạnh : Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo , đơn sơ đạm bạc: mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.

Con đường sống khiêm nhường : Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho mình. Ông thành thật nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là “tiếng kêu trong sa mạc”, không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.

Con đường sống trung thực : Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ mạng của mình, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Trung thực về những lời nói về mình nên ông không nhận vinh quang mà người ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với lòng mình nên Ông sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối,... Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu

Con đường sống quên mình : nhìn nhận là người đưa tin nên ông quên mình để cho Đức Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy mình để Đấng Cứu Thế được nhận biết.

Tóm lại Gioan Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức Kitô.

Mùa vọng này, mọi ngươì đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay vì làm chứng cho Chúa thì chúng ta làm chứng cho ta....

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là “ để Chúa lớn lên” và để cho chúng ta biết đường tìm đến hạnh phúc đích thực.

Xin Thánh Gioan giúp chúng ta sống trong ánh sáng Của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.

KHIÊM NHƯỜNG
Ga 1, 6 - 8. 19 - 28

Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Kitô. Vì bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Có người còn hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi ông phủ nhận mình không phải là Đấng Kitô thì họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta còn tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận tất cả những vinh dự đó.

Vậy, Gioan Tẩy giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu người lãnh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc của mình. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.

Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái . Một người Israen không bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu rửa sạch bằng phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.

Ông nói: “về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng”.

Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa, và ngụ ý: “Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài , các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hãy dọn mình sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”.

Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu . Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.

Lạy Chúa, Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên mình, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.

NIỀM VUI THẬT
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Chúa nhật thứ ba mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng, Chúa nhật của sự vui mừng (Gaudete Sundae). Màu hồng của phẩm phục phụng vụ cho thấy sự vui mừng, yêu đời và hy vọng. Và quả thực tư tưởng lời Chúa hôm nay nói lên điều đó. Isaia loan báo: Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa và lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó. Thánh Phaolo cũng kêu gọi tín hữu Thêxalônica: anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Và bài Tin mừng cho chúng ta thấy niềm vui ấy khi Gioan Tiền Hô loan báo Chúa Kitô là nguồn an ủi của mọi tâm hồn: Có một vị đến sau tôi và đang ngự giữa các ông mà các ông không biết.

Niềm vui, hy vọng hay hạnh phúc của chúng ta bắt nguồn từ đâu? Chúng ta phải sống niềm vui ấy như thế nào?

Niềm vui hay hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần gian. Vì con người được Thiên Chúa dựng nên để chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời với Thiên Chúa. Pascal đã nói: Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc, ngay cả những người tự tử. Nhưng chúng ta không thể tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc hay hy vọng ở ngoài Thiên Chúa.

Ngày nay có người đi tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng “thăng hoa” của tình yêu đôi lứa. Nhưng hạnh phúc ấy chợt vụt tắt khi họ không còn cần đến nhau nữa. Có người tìm kiếm hạnh phúc nơi tiền bạc hay của cải, nhưng tiền tài của cải cũng chóng qua như khi nó đến. Cũng có người tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc nơi sự nghiệp công danh. Nhưng công danh sự nghiệp thì kèm theo nước mắt và đoạ đày.

Niềm vui, hạnh phúc thật của con người không thấy được tìm thấy nơi khoái lạc trần gian, nơi vật chất mau qua chóng tan hay cuộc sống danh vọng nhiều ganh đua. Niềm vui và hạnh phúc thật chỉ có được khi con người sống trong vui tươi, tin tưởng, bất chấp mọi khổ đau vì con người tin rằng Chúa Giêsu đã đến và mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sống: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người xuống cho trần gian để nhờ Người Con một ấy chúng ta được sự sống của con Chúa, được trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui đích thực, đó là niềm phấn khởi bao la của chúng ta.

Nhưng để sống được trong niềm vui và hạnh phúc ấy chúng ta hãy tập sống như Gioan Tiền Hô trong bài Tin mừng hôm nay. Gioan xuất hiện trong khiêm tốn dù ông là một nhân vật rất quan trọng (Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế). Ông từ chối hết tất cả những tước hiệu mà dân chúng gán cho ông (vì nó không phải là của ông). Hạnh phúc và niềm vui của Gioan là đến để làm chứng cho ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin và được cứu rỗi. Đối với Gioan, trở thành đầy tớ của Thiên Chúa và giúp mỗi người trở về với Thiên Chúa là niềm vui và hạnh phúc thật.

Trần Văn Điền định nghĩa hạnh phúc như sau: Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay nhưng là cái bạn mang trong tim. Hạnh phúc là kêt quả của tình thương yêu đối với mọi người. Khi chúng ta mở một nụ cười với người đau buồn, khi chúng ta nói một lời an ủi, nâng đỡ đối với người tội lỗi; một hành vi giúp đỡ cho người thiếu thốn. Niềm vui và hạnh phúc là chia vui với người vui, là sớt chia nỗi buồn với người sầu khổ.

Niềm vui và hạnh phúc thật còn là bình an trong tâm hồn mình, là khiêm nhường chấp nhận thực tại của cuộc sống mặt dù cuộc sống này còn đó những khó khăn và thử thách.

Sự vui mừng hay hạnh phúc của chúng ta phải đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện với chúng ta. Hạnh phúc và niềm vui là tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa vì chính Chúa là nguồn vui thật của chúng ta và sự sống của chúng ta ở nơi Đức Giêsu Kitô.

NIỀM VUI CỨU ĐỘ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Chúa Nhật hôm nay được gọi là "Chúa nhật Hồng, Chúa Nhật Vui". Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui chúng ta được nghe hôm nay. : "Anh chị em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa : anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần". Niềm vui ơn cứu độ, niềm vui an bình, niềm vui hạnh phúc. Vậy chúng ta phải sống như thế nào trong mùa vọng này, để hưởng được trọn vẹn niềm vui Chúa ban ?

Chuyện kể về một ông vua lúc nào cũng lo âu không biết cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua cho gọi một nhà khôn ngoan lại để hỏi xem làm thế nào trút bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi ông không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc ? Nhà thông thái trả lời :“Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang sống hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng thì họ cũng tìm thấy một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin ngồi mỉm cười ở giữa chợ, và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với người ấy về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn để mua lại chiếc áo hạnh phúc đó.

Anh chị em nghĩ sao ? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không ? Anh chị em có biết phản ứng của người ấy ra sao không ? Không nín được cười ! Người ăn xin bật cười lên rất to và nói rằng : “Thật đáng tiếc ! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả !”. Vâng, người hạnh phúc nhất trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả !

Thưa anh chị em, qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nhìn thấy mọi người kéo đến với ông Gioan Tiền hô để tìm kiếm hạnh phúc, và ông đã vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông, để họ được thực sự được hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu thế đang đến gần. Vậy những con đường đó là những con đường nào ?

Con đường khiêm nhường. Ông Gioan từ chối mọi vinh quang người ta tôn vinh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, cũng không phải là Ê-li-a vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đấng Cứu Thế.

Con đường sống khổ hạnh. Cuộc đời của Gioan là ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc là đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gio-an còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn uống của ngài là châu chấu và mật ong rừng.

Con đường trung thực. Trung thực về những lời nói về chính mình, nên ngài không nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài đang có. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu mình.

Con đường quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, nên thánh Gioan luôn quên mình đi, để cho Đấng Cứu thế được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Đấng Cứu thế được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Đấng Cứu thế được nhận biết.

Tóm lại, Thánh Gio-an thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, chứng nhân của hạnh phúc.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh chị em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình. Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy nhìn vào tấm gương của thánh Gio-an để tôi biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến, và để tôi biết đường tìm đến hạnh phúc đích thực.

Xin thánh Gio-an luôn giúp chúng con sống trong ánh sáng để chúng con được hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc Chúa ban. Amen.

BẠN PHẢI LÀ GIOAN TIỀN HÔ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế cứu chuộc nhân loại, không những vì Chúa đã hứa, mà còn nhất là vì Chúa muốn mọi loài được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, trước khi Con Thiên Chúa ra đời, Chúa đã phải chuẩn bị một Dân riêng, kiên nhẫn giáo dục họ, để họ có thể đón nhận Chúa Cứu Thế.

Chúa Cứu Thế đã xuất hiện và đang hoạt động. Thiên Chúa sai Gioan với đời sống nhiệm nhặt, không ham danh vọng trần gian, giới thiệu và làm chứng về Chúa Cứu Thế. Gioan nói: Tôi không phải là Đấng Kitô, tôi đến chỉ để làm chứng về ánh sáng là chính Chúa Giêsu Kitô.

Ngày nay, Chúa Cứu Thế và ơn Cứu Chuộc của Chúa vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, mỗi người tín hữu chúng ta hãy là những Gioan Tẩy Giả của hôm nay, phải giới thiệu và làm chứng về Chúa Cứu Chuộc cho mọi người.

Để trở thành chứng tá của Chúa Kitô, chúng ta cũng hãy như Gioan Tẩy Giả, sống công chính, không ham lợi lộc vật chất trần gian cho mình, nhưng tất cả chỉ nhằm làm cho Chúa Kitô và Ơn Cứu Chuộc của Người lớn lên.

Vì là người tông đồ, là người tiền hô của Chúa Kitô, nên chúng ta phải hướng về Chúa Kitô, kết hợp với Chúa Kitô, và hướng dẫn mọi người đến với Chúa Kitô. Như thế, không bao giờ được phép để cho người ta lầm tưởng mình là Chúa Kitô. Trong trường hợp này, chúng ta phải giải thích chân tình, để mọi người nhận ra Chúa Kitô thật sự và ơn cứu chuộc của Người.

Trần gian hôm nay, tuy có nhiều phương tiện khoa học tiến bộ, đang “nhắm mắt bịt tai” đối với ơn cứu chuộc của Chúa, không nhận ra Chúa Kitô, hoặc lầm tưởng “lạc thú”, “tiền tài danh vọng” là Chúa cứu độ. Không phải thế, họ đến không đúng chỗ.

Mỗi người chúng ta phải chấn chỉnh nề nếp giáo dục gia đình Công Giáo mà giới thiệu Chúa Kitô cho thế gian.

TIẾNG KÊU TRONG HOANG ĐỊA
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Niềm hy vọng sẽ không giá trị gì đối với những ai cứ khép chặt lòng mình không muốn đổi mới. Tiếng kêu cầu hay kêu cứu của con người sẽ chẳng ai nghe nếu cuộc đời vắng đi những tâm hồn biết sống cho người khác. Gioan Tẩy Giả thật khiêm nhường khi tự giới thiệu về mình “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu giữa phố xá thị thành may ra còn người đáp cứu. Tiếng kêu giữa nơi hoang vu thì mấy ai trả lời. Ấy vậy mà Gioan vẫn kêu mời mọi người dọn đường đón Chúa đến. Tôi nhìn thấy cuộc đời luôn có những tiếng kêu vang. Kêu trong niềm hạnh phúc đến tột cùng. Kêu trong nỗi đau buồn đến tuyệt vọng. Kêu trong nỗi ưu phiền cho phận người còn quá long đong.

Tiếng kêu trong niềm vui sướng

Loan báo niềm vui lúc nào cũng làm cho người ta mạnh miệng. Tiên tri Isaia đã mạnh dạn khi nói về thời gian mà Thiên Chúa thi ân cho con người. Ngày mà tù nhân được phóng thích, lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, những tấm lòng tan nát được Chúa băng bó vết thương. Đó là thời thịnh vượng, sung túc vì Thiên Chúa đến với con người.

Thật là oan ức khi có người cho rằng tiếng kêu trong vui mừng chẳng qua là “nổ”. Không, niềm vui khi được sẻ chia thì niềm vui nhân lên. “Nổ” là người nói quá sự thật, nhưng tiếng kêu trong vui mừng là nói sự thật để mọi người cùng vui. Đây lại là một niềm vui lớn: Thiên Chúa đã đến với con người.

Tiếng kêu trong sứ mệnh làm chứng

Nếu mình đóng vai trò là một bóng mờ để người khác vượt đúng là điều không dễ. Bởi nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Sự hy sinh đến mức tự huỷ chính mình là điều không ai muốn. Aáy vậy mà Gioan xuất hiện để thực hiện sứ mệnh ấy. Ông chấp nhận lắng chìm để Chúa được nâng lên. Oâng tự nhận không xứng cởi day giày cho Người để tất cả mọi người hãy quên ông đi để tập trung hướng về Đấng Cứu Thế.

Ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ thật có thế giá. Nhiều người tuôn đến chịu phép rửa của ông. Có lẽ có nhiều người rất thần tượng về ông. Thế nhưng ông không cố giữ những lời ca tụng của dân chúng nới bản thân. Tiếng “không” là một cách trả lời dứt khoát và đúng sự thật. Tôi không phải là Êlia, cũng không phải là Môisen, càng không phải là vị cứu tinh mà mọi người trông đợi.

Gioan xuất hiện như mẫu gương của sự khiêm nhường trong việc làm chứng cho sự thật. Sống giữa đời tôi cần phải biết mình, biết người và biết Chúa. Biết những giới hạn của mình để đón nhận và cố gắng vượt qua. Hiểu biết người để cùng đồng hành chia sẻ. Biết Chúa để phụng thờ và thiết lập một tương quan ngày càng xứng hợp. Khi nào ta dám xoá mình đi khi đó ta mới làm chứng cho người khác được.

Tiếng kêu để mời gọi đổi đời

Tiếng kêu trong hoang địa không phải là tiếng kêu cứu của kẻ cô đơn thất vọng nhưng là lời mời gọi mọi người đổi mới. Đổi mới cái nhìn bằng cách nhận ra Chúa đang hiện diện quanh đây. Đổi mới cánh sống bằng việc sám hối lỗi lầm. Đổi mới con người bằng việc thực thi công bằng bác ái. Gioan vào sa mạc tưởng đâu tách biệt nhưng thực ra ông đang sống rất gần. Bằng những lời kêu mời rất cụ thể, Gioan muốn giới thiệu về một Thiên Chúa cũng rất gần và đang đến.

Mỗi Kitô hữu giờ đây đến Chúa Giêsu không còn là một nhân vật trong quá khứ nhưng Ngài đang sống với ta, trong ta. Đừng để Ngaì đi qua cuộc đời mà chẳng một ai tiếp rước. Tiếng kêu của Gioan vẫn còn vang vọng để nhiều người nhận ra Ngài, đón nhận Ngài mà thay đổi đời sống.

SÁM HỐI ĐỂ ĐÓN CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28

Con Thiên Chúa xuống thế làm người, không phải trong 1 cung điện nguy nga, cũng không phải trong 1 chức vị cao sang trọng vọng bề ngoài để cho người ta dễ dàng nhận thấy. Vậy làm sao để nhận ra Người?

Theo lời tiên báo của ngôn sứ Isaia, Đấng Cứu Thế không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho các bậc thần thánh. Người đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Người đến với người tàn tật để loan báo họ sẽ được chữa lành. Người đến với tù nhân để loan báo họ sẽ được ơn tha tội.

Chính vì thế mà ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện để giới thiệu về Người qua phép rửa sám hối.

Nhờ sám hối mà ta nhận ra thân phận nghèo hèn của mình, để mau mắn đón nhận Tin Mừng của Con Thiên Chúa. Nhờ sám hối mà ta nhận ra tâm hồn mình bị nhiều thương tổn, để cầu xin cho được chữa lành. Nhờ sám hối mà ta nhận ra con người thiếu xót và tội lỗi của mình để đón nhận lòng thương xót Chúa. Nhờ sám hối mà ta nhận ra Đấng Cứu Thế đang đến để cứu chuộc mình.

Như vậy, để gặp được Con Thiên Chúa, điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Ngài có sứ mạng được sai đến. Nếu chúng ta không muốn sống nghèo chúng ta sẽ không gặp được Ngài. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn tật nguyền và bị tù túng bởi tội lỗi, chúng ta sẽ không đón nhận được Vị Cứu Tinh.

Sám hối để nhận ra mình là người nghèo của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra Con Thiên Chúa đang đến và đang sống giữa chúng ta.

HÃY VUI LÊN
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Trần Thanh Sơn

Mùa Vọng là mùa của sự chờ mong, mùa chuẩn bị tâm hồn cho việc đón Con Thiên Chúa đến. Đây không phải là một sự chờ đợi trong u buồn, sầu não, nhưng là một sự chờ đợi trong hân hoan. Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ đến trần gian một lần nơi Bêlem cách đây hơn 2000 năm, nhưng trong những ngày đầu mùa Vọng, phụng vụ Giáo Hội còn mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến lần thứ hai trong vinh hiển để ban thưởng cho những ai trung thành. Và hôm nay, trong Chúa nhật III của mùa Vọng, Giáo Hội còn mời gọi chúng ta tin tưởng và vui lên, vì Chúa vẫn đang đến và đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống. Chính trong niềm hân hoan vui mừng đó, phụng vụ Giáo Hội cho phép chúng ta sử dụng lễ phục hồng ngay trong mùa Vọng này.

1. NIỀM VUI CÓ CHÚA Ở CÙNG :
Trong cuộc sống của mình có lẽ chúng ta cũng đã từng có nhiều niềm vui: Niềm vui khi thành công trong công việc làm ăn của quý phụ huynh, hay niềm vui thi đậu của các em học sinh. Đó còn là niềm vui âm thầm, nhẹ nhàng khi bỗng nhiên nhận được một luồng gió mát ngay giữa trưa hè nóng bức, hay niềm vui khi gặp lại người bạn thân sau bao ngày xa cách… tất cả những niềm vui đó đến với chúng ta do một tác động từ bên ngoài và rồi cũng đã qua đi, và có khi chúng cũng chẳng làm thoả lòng của chúng ta nữa.

Thế nhưng, có cũng những lúc chúng ta cảm thấy tâm hồn rất thanh thản, bình an cho dù bên ngoài không có gì thay đổi. Đó là những lúc tâm hồn chúng ta đang thuộc trọn về Chúa, có Chúa ở cùng. Hay nói một cách khác, đó là niềm vui của những tâm hồn trong sạch. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã lên tiếng diễn tả niềm vui của những người công chính: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi”.

Còn Mẹ Maria sau ngày truyền tin, cho dù chưa biết tương lai cuộc đời mình sẽ ra sao, nhưng khi đến thăm bà Elisabeth, Mẹ cũng đã lớn tiếng ngợi ca: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi”. Mẹ vui mừng vì Con Thiên Chúa đang ngự trong lòng Mẹ. Có Chúa ở cùng là có tất cả. Cùng với Chúa, Mẹ sẽ sẵn sàng đón nhận tất cả, vì Mẹ tin rằng: Thiên Chúa sẽ làm cho Mẹ mọi sự tốt nhất.

Có Chúa ở cùng phải là ước vọng và là niềm vui lớn nhất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Thế nhưng, chúng ta phải làm sao để có thể cảm nghiệm và giữ vững được niềm vui này?

2. THÁNH THẦN, ĐẤNG BẢO ĐẢM CHO NIỀM VUI TRỌN VẸN :
Con người chúng ta có xác và hồn. Với thân xác, niềm vui của chúng ta thường dựa vào những gì mà giác quan chúng ta cảm nhận được. Thế nhưng, những niềm vui đó không thật sự bền vững. Còn những niềm vui thiêng liêng thì lại không thể dễ dàng cảm nhận bởi các giác quan. Chính vì thế, trong bài đọc hai thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta: “Đừng dập tắt Thánh Thần, đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại”. Vâng, chỉ có trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, chúng ta mới có thể cảm nếm được niềm vui có Chúa trong mình.

Và để có thể đón nhận được Thánh Thần, thánh nhân còn khuyên bảo chúng ta: “Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức”. Tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, nghĩa là chúng ta phải tránh xa cả các dịp tội, kể cả tội nhẹ, đừng để ma quỉ thừa cơ lợi dụng những yếu đuối của chúng ta để lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa, vì chỉ những tâm hồn thật sự xa lánh tội lỗi, mới có thể cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa.

Mặt khác, ý thức được sự yếu đuối của chúng ta, thánh nhân cũng mời gọi chúng ta cầu xin sức mạnh của Chúa Thánh Thần đến trợ giúp chúng ta: “Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn”.

Như thế, Thánh Thần chính là Đấng giúp chúng ta đến với Thiên Chúa, đồng thời cũng nhờ Ngài chúng ta mới có thể thực sự cảm nhận được trọn vẹn niềm vui của người con Chúa.

3. LỜI MỜI GỌI CHIA SẺ NIỀM VUI :
Theo dõi các cuộc tranh tài ở Sea Games 23 tại Philíppin trong những ngày qua, chắc chúng ta thấy sau mỗi trận đấu cho dù có mệt mỏi, vất vả, thì các vận động viên dành chiến thắng cũng không dấu nổi vẻ vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt. Họ cầm cờ chạy khắp vòng quanh sân như muốn chia sẻ niềm vui đang trào dâng trong lòng họ với tất cả những người đang hiện diện.

Tương tự như thế, Chúa Giêsu không những đã đến trần gian cách đây hơn 2000 năm, nhưng ngày hôm nay Ngài vẫn đang hiện diện bên cạnh từng người chúng ta trong mỗi phút giây của cuộc sống. Có Chúa ở cùng chính là niềm vui tuyệt vời và lớn lao nhất. Và với một niềm vui lớn như thế, chúng ta không thể dấu kín trong lòng mà không loan báo cho mọi người. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc một đã tiên báo về bước chân hân hoan loan báo Tin mừng của Đấng Messia, người được xức dầu Thánh Thần: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương; báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày, phóng thích cho những tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Lời tiên tri này của vị ngôn sứ quả thực đã được ứng nghiệm, hơn 600 năm sau, tại hội đường ở Nazareth, Chúa Giêsu đã nhận những lời loan báo của ngôn sứ trên đây cho chính bản thân mình, khi nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Sách này nơi tai các ngươi” (Lc 4, 21). Chúa Giêsu được đầy tràn hoan lạc trong Thánh Thần và Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng cho mọi người. Do đó, bản thân chúng ta một khi đã có được niềm vui có Chúa ở cùng, chúng ta cũng phải cất bước lên đường chia sẻ niềm vui đó cho anh chị em mình.

Chúng ta cần loan báo tin mừng cho anh chị em mình không chỉ bằng những lời nói, nhưng phải bằng những việc làm thật cụ thể. Thánh Giacôbê nói: “Ích gì, hỡi anh em, khi ai rêu rao mình có đức tin, mà việc làm lại không có? Hoạ chăng đức tin có thể cứu nó? Nếu có anh hay chị em mình trần thân trụi, và lương thực hằng ngày cũng thiếu, mà có người trong anh em nói với họ: “Chúc anh chị đi bình an, mặc cho ấm, ăn cho no”, mà anh em lại không cho những gì cần thiết cho thân xác họ, thì có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không việc làm, thì đức tin ấy đã chết tiệt rồi!” (Gc 2, 14-17).

Chúng ta còn phải loan báoTin mừng bằng chính đời sống vui tươi của mình. Chúng ta không thể loan báo Tin mừng bằng một khuôn mặt buồn được. Do đó, ngay mở đầu bài đọc hai, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Hãy vui mừng luôn”.

Như thế, chính hành vi bác ái, tha thứ, chia sẻ và nhất là thái độ lạc quan, vui sống của mỗi người chúng ta chính là thước đo cho thấy mức độ chúng ta đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình. Và cũng chẳng đâu xa, ít phút nữa đây, từng người chúng ta lại có cơ hội để đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể vào tâm hồn mình. Có Chúa ở trong mình, chúng ta không được phép u buồn, sầu não, nhưng phải vui lên, và rồi khi trở về nhà chúng ta hãy chia sẻ niềm vui có Chúa cho anh chị em mình để từng gia đình và cả cộng đoàn chúng ta luôn tràn ngập niềm vui có Chúa ở cùng. Amen

TIẾC GÌ MỘT CÁI GẬT ĐẦU
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Trước khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng công khai trong toàn cõi xứ Giuđa, danh tiếng của Gioan Tẩy Giả đã nổi lên như một hiện tượng và được dư luận chú ý. Điều này được ghi nhận trong các sách Tin mừng. Xuất hiện nơi đồng vắng, sống đời chiêm niệm khổ hạnh, lời rao giảng hùng hồn như gióng lên tiếng chuông cảnh báo mọi người về một thời đại mới đang bắt đầu,… đó là tất cả những gì dân chúng thấy được nơi hình ảnh thánh thiện, cương nghị và khổ chế của Gioan Tẩy Giả. Uy tín và thanh thế ngày một ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Israel lúc bấy giờ nhưng không vì thế làm cho Gioan Tẩy Giả tự mãn, kiêu kỳ; trái lại, ông luôn khiêm nhường và hiền hoà, không làm gì lớn hơn điều Thiên Chúa đang cần đến ông một vị tiền hô khiêm hạ đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Cuộc đời và con người Gioan Tẩy Giả không gì khác hơn ngoài mục đích duy nhất “Người phải lớn lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Dư luận chú ý đến Gioan Tẩy Giả, họ đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Gioan Tẩy Giả, ông là ai?”. Trong thâm tâm, không người Dothái nào lại không mong chờ ngày Đấng Mêsia sẽ đến cứu thoát họ. Họ tin tưởng và chờ đợi. Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, vô hình trung, càng làm cho họ quyết tâm phải tìm cho ra nhân thân của con người bí nhiệm này. Quyết tâm này khiến họ hăng hái lên đường, bỏ thành đô Giêrusalem, băng rừng lội suối đến nơi Gioan Tẩy Giả đang rao giảng, đi tìm một giải đáp cho vấn nạn cứu rỗi.

Danh tiếng ngày một vang xa, nhiều bậc vị vọng trong dân Dothái tìm đến, uy tín được đề cao và kính trọng,… đó sẽ là cơ hội tốt để Gioan Tẩy Giả “hạ bệ” người em họ là Chúa Giêsu lúc ấy đang mai danh ẩn tích hay nếu có chăng thì cũng chưa thấm vào đâu so với sự nổi tiếng của ông. Và điều này xem ra cũng còn là sự trông mong của dân chúng cũng như của các vị lãnh đạo tôn giáo Dothái nữa. Họ chỉ chờ nơi ông một cái gật đầu, thế là đủ. Ông không cần giải thích, chỉ gật đầu thôi, vì tất cả đã được loan báo trong Kinh thánh rồi. Tiếc gì một cái gật đầu, mau chóng và dễ dàng! Thế nhưng Gioan Tẩy Giả đã không làm.

Ông xác quyết cách rõ ràng ông không phải là Đấng Mêsia, cũng không phải là Êlia, khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “tiếng kêu” nơi đồng vắng, chỉ là người dọn đường cho Đấng quyền uy ngự đến. Ông biết rõ ông chỉ là phù rễ và nhiệm vụ của ông không gì khác hơn là để cho chàng rễ được tôn vinh. Cuộc đời của ông luôn là cuộc đời loan báo trước cuộc đời của Đấng Cứu Thế. Niềm đam mê của ông chính là làm sao để cho mọi người chuẩn bị đón nhận ơn bình an và sự tha thứ của Chúa Kytô cách tốt nhất. Sứ mạng của ông là không ngừng rao giảng, khuyên răn con người trở về nẻo chính đường ngay bởi thời gian như “chiếc rìu đặt sẵn gốc cây” không thể chờ đợi, không còn cơ hội. Cho đến cuối đời, ông vẫn luôn là vị tiền hô trung tín của Thiên Chúa, không ngừng loan báo, hăng say giới thiệu “Đây Chiên Thiên Chúa” cho muôn người.

Cuộc đời và sứ mạng của Gioan Tẩy Giả luôn là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Cuộc đời và sứ mạng của ông giúp chúng ta duyệt xét lại đời mình cách đặc biệt trong Mùa Vọng này. Theo đó căn tính người Kytô là gì và đâu là chỗ đứng của người Kytô giữa lòng nhân loại? Căn tính Kytô không nằm ở tấm thẻ căn cước chứng minh tôi là người Công giáo hay nằm trong sổ rửa tội, thêm sức hay hôn phối mà nằm ở ngay chính đời sống chứng nhân của mình. Căn tính Kytô của chúng ta phải là nơi cho mọi người chú ý và tìm đến như Gioan Tẩy Giả xưa. Chính căn tính đó sẽ quyết định vị thế của người Kytô chúng ta giữa lòng nhân loại. Nhân loại sẽ chú ý, sẽ tìm đến chúng ta và điều họ cần là đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ làm cho họ hiểu rõ hơn khuôn mặt của Chúa Giêsu Cứu Thế đang hiện diện và đồng hành giữa nhân loại, cách đặc biệt nơi những người cùng khốn, nghèo nàn và bệnh tật. Vị thế đó chỉ được biết đến khi mỗi người biết để cho Chúa được lớn lên chứ không phải là để cho cái tôi ích kỷ tham danh hám lợi của mình được thổi phồng, được đánh bóng dưới nhiều hình thức ngụy trang giả hiệu. Hãy nhớ rằng danh Chúa được tôn vinh và ơn cứu độ được triển nở ngang qua mái nhà Kytô hữu chúng ta.

Mùa Vọng là cơ hội tốt nhất để chúng ta sống chứng nhân cho Chúa Kytô và cũng là dịp để mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống chứng nhân của mình. Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta xin Chúa cho chúng ta được trở nên những người tiền hô, đi trước để chuẩn bị tâm hồn đón chờ ngày Chúa quang lâm.

CHỨNG NHÂN CHO ĐỨC KITÔ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật 3 Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa: một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?

Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.

Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảng khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến “.

Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết: ” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người: ” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.

Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ). Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng: ” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa Giêsu như các Ngài đã làm chứng.

Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại vì yêu thương con người. Chúng ta đang trên con đường hành trình lữ thứ, chúng ta phải năng lắng nghe và thực thi lời Chúa qua đời sống cụ thể hằng ngày. Làm chứng cho Chúa bằng gương sáng và bằng những hành động bác ái cụ thể trong đời sống mỗi người chúng ta. Bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi sống chúng ta và là bằng chứng chúng ta tôn kính, thờ lạy và làm chứng cho Ngài.

Lạy Chúa, xin hãy dạy chúng con sống thánh thiện để được rước Chúa và siêng năng, cần mẫn rước Chúa mỗi ngày. Xin làm cho tâm hồn chúng con trở nên đền thờ sống động, xứng đáng cho Chúa ngự trị. Amen.

CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Anmai, CSsR

Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 46-55).

Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao ! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”. (Is 61, 10-11)

Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy ? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa – Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. (Is 60, 1-3).

Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.

Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.

Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.

Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.

Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết !

Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.

Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi … Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy ! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không ? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào ? Lửa thử vàng, gian nan thử sức ! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.

Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta “Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).

Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.

Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.

Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.

Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không ?

Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA” (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.

Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.

LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG
Ga 1, 6 - 8.
19 – 28
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” ( Ga 1,6-7 ).

Ánh sáng là gì ? Một câu hỏi không dễ dàng trả lời. Ánh sáng ở đâu ? Dường như người ta hơi khó khăn khi muốn trực tiếp chỉ cho kẻ khác thấy ánh sáng, mặc dù ai cũng công nhận là có ánh sáng. Vì trong thực tế người ta chỉ thấy vật này, người kia, cảnh nọ nhờ có ánh sáng. Trái lại, khi hỏi bóng tối ở đâu thì người ta dễ hình dung ngay là khi ta mở mắt mà không thấy gì cả, chỉ thấy một màu đen bao trùm không gian trước mặt.

Không kể các vật phát sáng như mặt trời, bóng đèn điện…, người ta biết có ánh sáng nhờ thấy các sự vật mà đúng hơn nhờ các sự vật phản chiếu ánh sáng. Như thế nhờ có ánh sáng mà các sự vật ( cũng như con người ) xuất hiện như chúng là. Và ngược lại khi các sự vật được thấy như chúng là thì người ta nhận biết có ánh sáng. Chúng ta có thể kết luận rằng ánh sáng là cái làm cho con người, sự vật được nhìn thấy, nghĩa là hiện hữu như chính mình.

Gioan được sai đến để làm chứng về ánh sáng. Chúng ta dễ dàng tin nhận ánh sáng ở đây chính là Đức Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng, đến thế gian để soi sáng cho mọi vật mọi loài, nhất là cho con người thấy mình là ai trong các mối tương quan. Chúa Kitô cũng chính là sáng sáng soi dẫn con người bước đi trên chính lộ. Như thế Ánh sáng đến thế gian là để cho con người biết mình là ai và phải sống như thế nào cho đúng với ý Đấng Sáng Tạo đã dựng nên nó từ thuở ban đầu.

Gioan đã làm chứng cho ánh sáng là làm chứng cho Đức Kitô qua việc tự biết mình là ai và đã sống đúng phận vụ của mình. Dù được dân chúng tín nhiệm và tuôn đến đông đảo, dù được nhiều người, thuộc nhiều thành phần xã hội kính trọng và nghe lời khuyên bảo, Gioan đã thẳng thắn tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia hay một ngôn sứ nào đó mà chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ngài ý thức phận vụ của Ngài là làm phép rửa bằng nước để kêu gọi sự sám hối còn Đấng Thiên Sai mới thanh tẩy dân bằng Thánh Thần, nghĩa là Đấng Thiên Sai mới là Người thông ban ân lành. Đấng Thiên Sai là Đấng được Thánh Thần “xức dầu, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, cong bố lệnh ân xá cho lẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân…” ( Is 61,1 ).

Phận vụ của người dọn đường là làm cho con đường nên ngay thẳng và sạch đẹp. Khi đã hoàn tất công việc thì người dọn đường phải rút lui để cho Đấng phải đến, bước đi. Gioan nhìn nhận mình chỉ phù rể, hân hoan thấy ngày của tân lang bừng sáng ( x. Ga 3,29 ), thậm chí không đáng cởi giây giày cho tân lang ( x.Ga 1,27 ). Và Đức Kitô cần lớn lên còn Ngài, Gioan thì phải nhỏ lại ( x.Ga 3,30 ). Hiện diện và sống như mình là, đồng thời vuông tròn sứ mệnh đã lãnh nhận là cách thế minh chứng về ánh sáng.

Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian lại không thích ánh sáng, không đón nhận ánh sáng ( x.Ga 1,11 ). Quả thật, mỗi khi đã vương phải vòng tội luỵ thì con người thích ẩn mình đi ( x. St 3,10 ). Ánh sáng làm con người thật của chúng ta bị phơi bày và chúng ta sẽ bị trách cứ, bị tố cáo, bị xét xử, nếu chúng ta lỗi lầm, phạm tội. Tuy nhiên đây chính là tiền đề của sự hối cải, ăn năn. Làm sao chúng ta có thể ăn năn, hối cải nếu tiên vàn chúng ta không nhận ra con người thật của mình, không nhận ra tội lỗi mà mình đã phạm ?

Đối với những người khiêm nhu, muốn vươn lên, thoát khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi thì việc ánh sáng đến là một hồng ân vô bờ, là một tin vui khôn xiết. Trái lại với những người cao ngạo, cố chấp, thì ánh sáng đến sẽ trở thành lời tuyên cáo dứt khoát và rõ ràng. Vì họ cố chấp, hay kiêu ngạo chối từ ánh sáng, nên họ mãi vẫn chìm ngập trong bóng tối tội lỗi. ” Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” ( Ga 9,39 ).

Là Kitô hữu, chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Cũng như Gioan Tẩy giả, chúng ta có bổn phận làm chứng về ánh sáng. Việc trang trí đèn hoa, máng cỏ, cây thông, việc tổ chức lễ lạc linh đình…vào dịp kỷ niệm mừng ngày Chúa Giáng Sinh quả là một việc nên làm và đáng làm. Tuy nhiên, để làm chứng về ánh sáng chỉ bằng những việc ấy mà thôi thì chưa đủ và hầu chắc sẽ ít hữu hiệu. Không gì hơn, noi gương vị Tiền Hô, hãy sống thật cái căn tính và ơn gọi của mình. Bà con lương dân, anh em khác đạo và cả anh em vô thần sẽ có cơ may nhận ra ánh sáng khi chúng ta hiện diện, sống như là những người Kitô hữu, nhũng người đang có Chúa Kitô trong mình. Đồng thời chúng ta cần vuông tròn giới lệnh căn bản và cũng là sứ vụ nền tảng mà Chúa Kitô đã trao ban đó là “ yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta” ( x.Ga 15,12 ).

Giáng Sinh sắp lại về, mỗi người chúng ta đã, đang và sẽ làm gì đây để cho người anh chị em xóm giềng, lân cận, nhận ra Chúa Kitô là ánh sáng trần gian, là ánh sáng chân lý, ánh sáng cứu độ ? Không dám ước mơ có nhiều người, chỉ cần có một người, nhờ tôi mà tin Chúa Giêsu Kitô chính là ánh sáng chân lý, nhờ tôi mà đón nhận ánh sáng cứu độ, thì tôi đang sống Mùa Vọng đượm đầy ý nghĩa.

HÃY VUI LÊN, VÌ CHÚA ĐANG Ở GIỮA DÂN NGƯỜI
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Jos Tạ Duy Tuyền

Khi nhìn vào cuộc đời bể dâu, Nguyễn Du đã từng thốt lên lời thơ ai oán qua truyện Kiều:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Cuộc đời buồn nhiều hơn vui. Dòng đời nước mắt nhiều hơn nụ cười. Kiếp nhân sinh vẫn đong đầy khổ đau của cái nghèo, cái bất công, cái áp bức, và bất hạnh. Cuộc sống vẫn đầy những lắng lo về cơm áo gạo tiền, về tương lai còn đầy đen tối.

Đó cũng chính là thảm cảnh của dân lưu lạc Israel. Họ phải sống kiếp nô lệ bên Babylon. Cuộc đời họ chìm đắm trong bể khổ trần ai. Chính trong thảm cảnh đầy nước mắt của kẻ lưu đầy, họ đã ngước về trời cao, trông mong Đấng Cứu Tinh giải thoát nhân trần. Biết bao lời ca ai oán: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây ơi, hãy mưa Đấng cứu tinh”, là bằng chứng cho thấy sự khát khao chờ mong sự giải thoát của Thiên Chúa dành cho họ.

Hôm nay, chúng ta nghe lời của tiên tri Isaia loan báo cho dân sứ điệp về niềm vui đã gần kề. Isaia mời gọi: Hãy vui lên vì ngày giải phóng đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Thiên Chúa sẽ lau khô giọt nước mắt. Thiên Chúa sẽ băng bó những vết thương. Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Người để ban bình an, hoà bình và thịnh vượng cho dân. Và niềm vui đó càng dâng cao khi Gioan rao giảng về triều đại Messia đã đến. Gioan đã chỉ cho dân thấy triều đại của Đấng Thiên Sai đã bắt đầu. Gioan còn mời gọi dân chúng đón nhận niềm vui bằng đời sống sám hối ăn năn. Gioan còn cảnh tỉnh dân chúng hãy tỉnh thức vì Chúa đã đến giữa dân Người. Gioan đã nhận mình là người làm chứng cho Đấng Messia. Ông chĩ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

Vâng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, vẫn còn đó những giọt nước mắt lầm than, cơ cực. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người đau khổ triền miên, vẫn còn đó những mảnh đời đói khát cơ hàn. Họ đang cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Chúa giữa thế gian. Họ cần chúng ta làm chứng, không phải bằng lời nói mà bẳng hành động. Họ cần chúng ta dám dành cho họ những cái nhìn cảm thông, những lời ủi an khích lệ, thay cho thái độ bàng quan, dửng dưng trước nỗi khổ của đồng loại. Họ cần chúng ta dành cho họ những nghĩa cử bác ái, vị tha. Họ cần chúng ta sống yêu thương, để giới thiệu cho họ một Thiên Chúa đầy yêu thương đang hiện hữu giữa cuộc đời hôm nay. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ đem lại niềm vui cho những ai khổ đau. Chính đời sống chứng nhân của chúng ta sẽ mang lại niềm vui cho những ai đang thất vọng, đang lần mò trong đêm tối của cô đơn, buồn chán.

Có ai đó đã nói thật chí lý rằng: “sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”. Lối sống của Gioan đã lôi kéo hàng ngàn người đến với ông, nhưng liệu rằng lối sống của chúng ta có thu phục người khác hay làm cho họ thất vọng về lối sống của chúng ta? Cuộc sống của chúng ta có thực sự là món quá mang lại niềm vui cho anh em hay là gánh nặng cho anh em?

Ước gì khi nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, vì chúng ta dám sống yêu thương tha nhân như chính mình. Amen

SỐNG NIỀM VUI TRONG ÂN TÌNH CHÚA
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Ngay lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên mọi nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý.

Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu... Họ đang vui niềm vui của thế tục.

Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu ? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không ? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi may mắn trong các trò đỏ đen không ? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt không ? Chắc chắn không phải là thứ niềm vui đó. Vậy thì đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm ?

Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa ? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.

- Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu của Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữ, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.

- Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao ? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.

- Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.

Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của Ngài. Nhìn vào cuộc đời Ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh Ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiểng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng Ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo Ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của Ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Chúa Giêsu Kitô mà Ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên Ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên Ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Chúa Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu, nên Ngài nói: ” Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”(Ga 1, 27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Chúa Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ Ngài để đi theo Chúa Giêsu, Ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên Ngài nói: “ Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Mùa vọng thường giới thiệu vai trò làm chứng của Ông Gioan Tẩy Giả cho Đức Kitô. Bởi vì lẽ sống của Gioan Tẩy Giả là làm chứng. Gioan được sai đến để làm chứng. Chúa Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa cũng là để làm rõ lời chứng của Gioan cho Đức Kitô. Gioan không làm chứng cho ông: ” Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan là ngọn đèn. Chúa Giêsu là ánh sáng.

Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt qua các Phúc Âm. Gioan được Thiên Chúa sai đến dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông đã kêu gọi người ta ăn năn thống hối và thanh tẩy để lãnh ơn tha thứ. Tin Mừng cho biết tiếp, sau khi nhiều người đã tới với Gioan bên dòng sông Giođăng để xưng thứ tội lỗi và xin Ông làm phép rửa thống hối. Tiếng tăm của Gioan Tẩy Giả lúc này đã bắt đầu được nhiều người biết đến. Do đó, các nhà lãnh đạo các tôn giáo, những người có chức có quyền đã sai các đệ tử, những người thân tín của họ đến gặp Gioan và để tìm hiểu Ông. Khi những người được sai đến hỏi Ông là ai ? Gioan đã rất trung thực, dứt khoát không mập mờ để những người khác hiểu lầm về Đấng Cứu Thế: Đức Kitô. Gioan đã dứt khoát trả lời: Tôi không phải là Đức Kitô. Gioan cũng không phải là Êlia tái lâm hay một ngôn sứ vĩ đại như Môsê hay một ngôn sứ nào khác danh tiếng. Lần thứ hai những người được sai đến hỏi Gioan: Ông có phải là Đức Kitô không ? Gioan một mực dứt khoát trả lời: Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho Chúa đến. Lời khẳng định của Gioan Tẩy Giả minh chứng vai trò của Ông chỉ là dọn đường: hố sâu phải lấp cho đầy, đồi cao phải bạt xuống, con đường quanh co phải uốn lại cho ngay. Gioan tự xóa mình đi: ” Tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người…”. Đúng Gioan chìm sâu, nhỏ bé lại để vai trò của Chúa và con người của Chúa được lớn lên. Gioan cũng nhận rằng phép rửa của Ông chỉ là phép rửa bằng nước nhằm kêu gọi con người thống hối ăn năn, còn có đấng tới sau sẽ rửa bằng Thánh Thần. Chính Gioan đã chỉ cho các môn đệ của mình và cho nhiều người biết về Đấng Cứu Thế. Gioan là con người hoàn toàn siêu thoát, là một con người hiểu mình và biết Chúa. Gioan hoàn toàn khiêm nhường, nên lời chứng của Ông được nhiều người chấp nhận và tin theo.

Vâng, Gioan chỉ đứng ra làm chứng cho Thiên Chúa và chỉ cho nhân loại Đấng Cứu Thế xuất hiện, rồi Ông bình an rút lui vào bóng tối để nhiều người nhận ra Chúa, tuôn đến với Chúa, nghe lời Ngài giảng dạy và đi theo Chúa.

Gioan là đèn. Chúa là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu. Chúa là Lời hằng sống. Gioan nhỏ lại. Chúa phải lớn lên.

Người môn đệ Chúa luôn phải làm chứng cho Chúa như Gioan Tẩy Giả. Chúa đã ban cho con người nhiều dấu chỉ như ăn, nói, nhìn, nghe. Mỗi lần bước chân trên một con đường nào, nghe tiếng chim hót, nhìn bầu trời mây bay, và hít ngửi hương thơm của cây rừng, hoa núi, mỗi lần thấy anh chị em là Chúa đang hiện diện ở đó. Người môn đệ Chúa làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Người môn đệ Chúa như Gioan Tẩy Giả chỉ là tiếng kêu trong sa mạc dọn đường cho Chúa. Chân Phước Gioan Phaolô II đã nói: “ Người thời nay thích các chứng nhân hơn là những lời nói suông “. Chúa đang hiện diện trong từng con người, chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Ca nhập lễ hôm nay viết: ” Anh em hãy vui luôn trong Chúa !
Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên !
Vì Chúa đã đến gần ( Pl 4, 4.5 ).

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề ( Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật III Mùa Vọng ).

ANH EM HÃY VUI LÊN
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete - Hãy vui lên”.

Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).

Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.

Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem : "Ông là ai?" Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?

Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Ðức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Ðấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa.

Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta : Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng : "Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng".

Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Ðó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta".

Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).

Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.

HÃY SỬA ĐƯỜNG
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

 “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do thái chất vấn ông.

“Tiếng kêu trong hoang địa”. Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. “Tiếng kêu trong hoang địa” là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.

Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy.

Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn.

Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống.

Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của tiên tri Isia đã loan báo trong Cựu ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông, là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.

Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim Hòn đá lăn tròn do Mêhycô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc.

Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông, cho chính ông mà thôi.

Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là xảo thuật, nhằm gây lòng tin cho ai đó để họ tin vào chính bản thân ông, chứ không phải vào Chúa, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông…

Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn luật sư Prado trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa nghiệt ngã và đầy đớn đau. Đáng tiếc thương cho một kẻ quá khôn ngoan đối với cái lợi riêng bản thân của đời này, nhưng lại quá dại khờ khi mỗi một ngày sống là mỗi một một ngày ông tự đào sâu thêm cái hố, vốn đã làm cho ông xa rời mọi người, xa rời lòng thương yêu dành cho những người cùng sống với ông, đặc biệt là vợ con ông, càng trở thành xa diệu vợi hơn với ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Cái hố sâu thăm thăm thẳm mà cả một đời ông tạo ra, đã không thể lấp đầy, vì thế đã chôn ông dưới đáy của nó. Bởi đó, ở phần cuối bộ phim, nó đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà giây phú cuối đời, ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu. Bộ phim kết thúc trong nỗi bi đát tận cùng cho một sự kết thúc đời người của luật sư Prado đầy tăm tối…

Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm? Nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Một thứ hoang địa đầy dẫy nỗi chết chóc, cho nên rất cần những “tiếng kêu trong hoang địa” giúp ta “sửa lại cho ngay đường Chúa đi”, nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình.

Sửa lại tâm hồn để ta trở thành người ngay chính, để đừng bao giờ là một Prado trong cõi đời này.

Bởi nếu mang hình ảnh Prado, ta sẽ là kẻ bị cuốn trôi bởi mọi thứ hào nhoáng, mọi ảo ảnh hạnh phúc mà quên mất ánh sáng thật, hạnh phúc thật. Là Prado, ta cứ mải miết chạy theo “cơm áo gạo tiền”. Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu… mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận xưng tội, rước lễ, nghe Lời Chúa…

Hãy sửa lại tâm hồn, để tâm hồn trở nên ngay chính. Với tâm hồn ngay chính, ta sẽ đủ sức mạnh đặt mình đứng đối diện với cám dỗ mà chống trả, mà lớn lên trong lẽ sống đức tin,

Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy giả: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”.

Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa. Đó là lời kêu gọi còn mới nguyên qua mọi thời đại.

Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan ngỏ với bạn và tôi: “Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”, sửa cho ngay tâm hồn của chúng ta.

GIÁ TRỊ CỦA LỄ CHÚA GIÁNG SINH
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật thứ III Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa : một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy ?

Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa. Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật hồng, khởi đầu bằng câu hát “ Mừng vui lên” , mời gọi chúng ta đón nhận niềm vui, tỉnh thức trong hớn hở vui tươi.

Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảnh khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định:” Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến”.

Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết :” Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng “. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người :” Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi “ ( Ga 1, 23 ). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.

Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết:” Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người “ ( Ga 1, 9 ). Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian:” Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người “( Ga 1, 10 ). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng :” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “( Ga 1, 14 ). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người ( Ga 2, 11 và Lc 9, 32 ). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chún

Xin được mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI để kết thúc bài chia sẻ này:” …Ai đã gặp gỡ Đức Kitô trong đời mình rồi thì cảm thấy trong lòng
Một niềm thanh thản và hân hoan mà không ai, cũng không tình huống nào có thể xóa đi được.Thánh Augustinô đã hiểu rõ điều ấy trong cuộc đi tìm chân lý, bình an, niềm vui : sau khi đã tìm kiếm trong đủ mọi thứ một cách vô vọng, Ngài kết luận bằng câu nổi tiếng rằng trái tim con người vẫn khắc khoải, không tìm đâu ra sự thanh thản và bình an bao lâu nó chưa được nghỉ ngơi trong Thiên Chúa. Niềm vui đích thực là một ân huệ, phát sinh từ cuộc gặp gỡ với người sống động là Đức Giêsu, từ chỗ đứng chúng ta dành cho Người nơi mình, từ thái độ chúng ta đón tiếp Thánh Thần là Đấng hướng dẫn đời mình “.

Lạy Chúa Giêsu, xin mau đến ! Maranatha, Lạy Chúa xin hãy đến ! Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa Hội Thánh, nơi mỗi người chúng con tiếp xúc hằng ngày. Amen.

ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ?
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Gioan Tẩy Giả đã thu hút được đông đảo quần chúng Do Thái khi Ông rao giảng việc ăn năn sám hối ở bờ sông Giođan. Các tư tế, các thượng tế, Lêvi, Biệt phái đều tỏ ra thắc mắc về Gioan là ai ? Họ muốn biết Ông giữ vai trò gì trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa ? Ông có phải là Đức Kitô, Đấng được xức dầu và sẽ đến vào thời cứu rỗi? Là Elia ? là ngôn sứ hay là một nhân vật nào đó mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian để rao giảng sự thống hối vào ngày sau hết của việc phán xét cuối cùng ? Lời rao giảng và những việc làm của Gioan Tẩy Giả quả làm chấn động xã hội thời Ông.

Bên giòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng, đã làm phép rửa bằng nước, Ông đã gây chú ý cho biết bao nhiêu người đồng thời. Ông rao giảng:” Hãy từ bỏ tội lỗi mình…Hãy dọn đường cho Chúa đến: hãy làm một lối thật thẳng để Ngài đi “. Tin tức về những hoạt động của Ông chẳng mấy chốc lọt đến tai những vị lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem. Do đó, họ sai một phái đoàn gồm Lêvi và Tư tế đến với Gioan Tẩy Giả để tìm hiểu sự thật.

Các Tư tế lưu tâm đến Gioan vì Cha của Gioan là Giacaria cũng là một Tư tế như họ. Điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi Tư tế hoặc dòng Aaron. Nên, các tư tế ở Giêrusalem hết sức bỡ ngỡ về thái độ và cung cách kỳ dị của Gioan Tẩy Giả. Khi phái đoàn đến họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan ngay:” Ông là ai ?”.

Gioan biết họ đang nghĩ gì về Ông, nên Ông trả lời tức khắc:” Tôi không phải là Đấng cứu thế “. Các Tư tế hỏi:” Nếu Ông không phải là Đấng cứu thế, vậy Ông là ai? Ông có phải là Elia không ?”. Gioan nói thẳng Ông không phải là Elia mà các người Do Thái tin sẽ trở lại dương thế vì Elia đã được đưa về trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ. Họ hỏi:” Vậy Ông có phải là một vị ngôn sứ không ? “. Gioan lại trả lời:” Không, tôi không phải là một ngôn sứ như Giêrêmia hay Êdêkiên “. Họ hỏi tiếp:” Vậy Ông là ai ?” Gioan trả lời bằng câu nói của ngôn sứ Isaia:” Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến”. Để hiểu được tiếng tiền hô, ta phải trở về thời Gioan Tẩy Giả để hiểu: đường sá lúc đó hầu hết là đường đất, trũng, lầy lội khi mưa gió. Do đó, khi có vị quan hoặc vua tới thì vị tiền hô đi trước để mời gọi dân chúng lo đường cho tốt hầu vua hoặc quan đi qua cho tốt đẹp. Tiền hô cũng còn một nhiệm vụ nữa là dậy dân chúng nghi thức tiếp tân cho tốt đẹp để đón tiếp các Cấp trên. Gioan Tẩy Giả cũng lưu tâm dân chúng thái độ tiếp tân dân cần phải có để đón Chúa tới:” Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”(Mc 1, 4 ).

Gioan không phải là chính, sứ điệp của Ông ta có thể hiểu như sau:” Tôi không phải là Đấng cứu thế, nhưng tôi là người tiền hô cho Ngài”. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Gioan đã chu toàn sứ mạng tôn giáo của mình. Ông không để nhân loại và đám đông chỉ chú ý tới Ông:” Ngài phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại”. Gioan hướng con người chú ý tới Chúa. Đây cũng là sứ điệp Mùa vọng mà Giáo Hội đang hướng chúng ta. Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Kitô đến. Ngài đến trong lịch sử nhân loại và Ngài lại đến với thế giới vào ngày sau hết. Phụng vụ các bài đọc Chúa nhật hôm nay cho nhân loại hay:” Gioan không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Chúa đến”. Ông dậy chúng ta phải đón Chúa như thế nào và chúng ta chuẩn bị Chúa đến không như các người Do Thái xưa mà chờ đón Chúa đến để phán xét con người, phán xét chúng ta vào ngày tận thế. Nào chúng ta cùng ăn năn sám hối và cầu nguyện: Maranatha, Người ơi, xin mau tới…

HÃY VUI LÊN
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

 “Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cuộc đời giống như một tấm gương : mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương xem, sẽ thấy : mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế : tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. nếu tôi đến với nó với bộ mặt càu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.

Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng “bi quan” và “lạc quan”. Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh Thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan ? Xét về một phương diện, Kinh Thánh rất bi quan, bởi vì Kinh Thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh Thánh đã nói rõ rằng : con người sống trong một thế giới đầy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh Thánh lại rất lạc quan. Kinh Thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.

Cụ thể như các đoạn Kinh Thánh của Chúa hôm nay : ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Đấng Cứu Thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người : Hãy vui lên. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại : biết Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa - được sống trong cộng đồng Giáo Hội - được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong nước trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.

Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng” ấy sẽ trở thánh trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin Mừng. Như thế, chúng ta cũng không thể loan báo hay chia sẻ Tin Mừng cho người khác.

Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa Kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm người nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Ken-nơ-đy là Rô-bớc Ken-nơ-đy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận : những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.

Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm : khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.

Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội : báo chí, truyền thanh, truyền hình… đầy dẫy những tin buồn : tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc, tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc…

Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin Mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nảy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông làm thơm tâm hồn chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng : “Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.

ĐỨC KITÔ: NIỀM VUI CỨU ĐỘ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Sr. Thùy Trâm

Vọng là đợi chờ và đợi chờ giả thiết một cái gì còn thiếu vắng, mong được lắp đầy. Nếu có những nỗi đợi chờ đầy sợ hãi của một kẻ gian ác trước ngày ra tòa xét xử thì cũng có nỗi đợi chờ trong hân hoan của một em bé đợi mẹ về chợ, của người mong gặp người thân. Khi ấy nỗi đợi chờ trở thành hy vọng. Nỗi đợi thắm đượm niềm vui. Niềm vui đó là tâm tình của chúng ta, của Hội Thánh trong cuộc đợi chờ Chúa.

1. Chúa Giêsu: niềm vui được đợi chờ:

Niềm vui ấy là trực giác đức tin, nhưng cũng là chân lý được xây dựng suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Lần giở trong lịch sử xa xưa, ngôn sứ Isaia từng hát lên niềm vui ấy cùng với tất cả say sưa, hưng phấn sau những năm tháng lưu đày dường như vô vọng. Đó là niềm vui cho những người nghèo khó, cho tấm lòng tan vỡ, cho thân phận tù đày và ly tán, những khuôn mặt đong đầy nước mắt của Sion trong bài đọc I (Is 61,1-2,10-1).

Nhưng thế giới hôm nay có cần đến niềm vui ấy chăng? Khi mà cuộc đời vẫn còn những con người sống trong cảnh cùng cực về vật chất lẫn tinh thần. Là nạn nhân của bao bất công, bạo lực, chiến tranh, là nạn nhân của chính mình khi xây đắp ngục tù giam hãm mình trong bao ích kỷ, thù hận đam mê, mù quáng trong thành kiến.Vâng, thế giới hôm nay đang cần niềm vui, đang cần ơn giải thoát. Chính Đức Kitô là tin vui của chúng ta, của nhân loại mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả giới thiệu và minh chứng. Người được gọi là ánh sáng:

- Ngài là ánh sáng tỏa rạng niềm vui khi giải thoát chúng ta khỏi tăm tối cuộc đời, để trong Ngài chúng ta có thể tìm ra sự thật về mình trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân. Trong Ngài chúng ta tìm gặp được những giải đáp về cuộc sống để biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và chết sẽ đi về đâu: một sự thật cần cho cuộc đời chúng ta để gặp được niềm an vui chân thật.

- Ngài là ánh sáng cứu độ, là sức mạnh giải thoát chúng ta khỏi mọi nô lệ của tội ác, ích kỷ, thù hận.

- Ngài còn là ánh sáng ban sự sống. Sự sống đó là tình yêu nhằm nuôi dưỡng và làm phong phú cuộc đời chúng ta, là cho chúng ta được dự phần vào niềm hạnh phúc của chính Ngài hôm nay và mãi mãi.

Tất cả niềm vui của Thiên Chúa mang đến đã được kết tụ trong chính Đức Kitô. Hơn nữa Ngài chính là niềm vui giải thoát của Thiên Chúa hiện thân giữa loài người như Thánh Gioan minh chứng. Chính Ngài- Đức Kitô mà chúng ta đang đón đợi, vọng chờ trong tất cả hy vọng và niềm vui là vậy.

2.Tìm gặp niềm vui để trở thành người trao tặng niềm vui:

Tìm gặp chính Chúa là niềm vui: đó là thái độ tiên quyết của chúng ta hôm nay. Biết bao người trong chúng ta hôm nay chưa cảm nhận được niềm vui vì chưa gặp Đấng kiến tạo niềm vui, chưa gặp được chính Đức Kitô là niềm vui. Vậy chúng ta có thể làm gì?

Hãy mở rộng lòng đón Đức Kitô: Đón nhận Ngài bằng cách đón nhận cái nhìn của Ngài, cách đánh giá của Ngài về con người, về cuộc sống, đón nhận Ngài khi can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng, đón gặp Ngài khi chúng ta dám bước theo Ngài trên những nẻo đường loan báo tin vui cứu độ, để khi dám sống như Ngài, chúng ta tìm gặp được Ngài và nhận được niềm vui thực sự.

Để khi gặp được niềm vui, chúng ta hãy trở thành người trao tặng niềm vui. Vì niềm vui càng chia sẻ càng được nhân rộng, càng trao ban càng nên cao cả.

Xin Chúa cho chúng ta gặp được Ngài là chính niềm vui, để biến chúng ta thành nhũng người trao tặng niềm vui cho mọi người. Để được như vậy, hẳn không gì cần thiết hơn là chúng ta mặc sâu tâm tình tạ ơn và liên lỉ cầu xin như Thánh Phaolô khuyên nhủ trong bài đọc II (Tx 5,16-24) để được giữ gìn vẹn toàn hồn xác trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm.

HÃY SỬA ĐƯỜNG
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng

"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi". Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do thái chất vấn ông. "Tiếng kêu trong hoang địa". Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. "Tiếng kêu trong hoang địa" là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.

Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy. Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn. Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống. Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của tiên tri Isia đã loan báo trong Cựu ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông, là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.

Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim "
Hòn đá lăn tròn" do Mêhycô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc. Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông. Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là để ông gây lòng tin cho ai đó, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông... Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa mà ở phần cuối bộ phim, đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà cuối cùng ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu.

Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm bởi nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Đã là hoang địa cho nên rất cần những "
tiếng kêu trong hoang địa" giúp ta "sửa lại cho ngay đường Chúa đi", nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình. Sửa lại tâm hồn mình để ta trở thành người ngay chính, đừng như nhân vật Prado trong phim Hòn đá lăn tròn, cứ mải miết chạy theo "cơm áo gạo tiền". Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu... mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận xưng tội, rước lễ, nghe Lời Chúa...

Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy giả: "
Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi".

Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa.

Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan mời gọi "Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi", sửa cho ngay tâm hồn của bạn và cả tôi.

GIOAN TIỀN HÔ SỬA ĐƯỜNG CHO ĐẤNG CỨU THẾ RA SAO?
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Trần Bình Trọng, USA

Vào cái thời mà tại đất Do Thái, người ta đã chán ngấy cái tình trạng xã hội suy đồi. Những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự đều xuống dốc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị đế quốc La Mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến hơn bao giờ hết. Và theo quan niệm của dân chúng, thì đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế cái sứ điệp rao giảng sám hối của Gio-an Tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến đã làm khơi dậy niềm vui phấn khởi của dân Do Thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang đô hộ: dưới ách thống trị của đế quốc Ba Tư, dưới ách nô lệ của dân Ai Cập, dân Syria và đế quốc La Mã.

Như vậy, nếu theo quan niệm của dân chúng về Đấng Cứu thế, thì ông Gioan Tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là Đấng Cứu thế, nhất là cái sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng hỏi xem ông là ai, thì được Gio-an trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1,20).Vậy ông có phải là Elia không? Tôi không phải là Elia (Ga 1,21). Vậy ông có phải là một tiên tri nào không? Tôi cũng không phải (Ga 1,21). Và ông nói :Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, sửa đường cho Đấng Cứu thế đến như tiên tri Isaia đã loan báo (Ga 1,23).

Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi chỉ làm phép rửa trong nước... Nhưng còn có Đấng sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,26-27).

Giả sử Gioan Tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng Cứu thế, thì ông đã mất hết công phúc trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan Tiền hô đã nhận chân được cái vị thế của mình trước mặt Đấng Cứu thế. Ông chủ trương Đấng Kitô phải nổi bật lên, còn ông phải lu mờ đi (Ga 3,30), nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.

Cái bài học mà Gioan Tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng Cứu thế đến là biết chấp nhận : chấp nhận cái sự thật về mình, chấp nhận cái vị thế, cái thế đứng và cái giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm.

Là người công giáo, ta phải học với Gioan Tiền hô để biết mình, biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh, tránh thái độ tự cao tự đại. Nếu không, người ta có thể trở thành những người đòi hỏi và bất mãn. Và khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui đón mừng Chúa đến.

Hôm nay Giáo Hội dùng những Bài Thánh Kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan Tiền hô hôm nay dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng Cứu thế.

Là người Công giáo, ta phải học hỏi với Gioan Tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không người ta có thể trở thành những người bất mãn. Cái thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn. Vậy chỉ khi ta bằng lòng chấp nhận cái vị thế, cái chỗ đứng, cái giới hạn của mình, ta sẽ có được tâm hồn an vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu Thế.

CHÚA NHẬT THỨ BA MÙA VỌNG
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm Đan Vinh

1) NOI GƯƠNG TRUNG THỰC CỦA GIOAN TẨY GIẢ :
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan đã tỏ ra trung thực khi thẳng thắn xác nhận mình không phải là Đấng Kitô, Ngày nay, trong một thế giới đầy sự dối trá lừa đảo, mỗi người chúng ta phải có thái độ thế nào để noi gương trung thực của Gioan trong các quan hệ giao dịch buôn bán, sản xuất và các loại dịch vụ khác...?

Nhân dịp chuẩn bị đại Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Giáo Hội thành tâm sám hối. Vào tháng 5 năm 1995, tại nước Cộng Hoà Tchèque, Ngài đã nêu gương trung thực bằng việc khiêm nhường nhận lỗi và can đảm ngỏ lời xin lỗi như sau : "Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy". Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, qua các con cái của mình, Giáo Hội đã từng mắc phải một số lỗi lầm nghiêm trọng cần phải sám hối. Chẳng hạn : Giáo Hội cũng có phần trách nhiệm trong sự chia rẽ giữa Công Giáo với Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo; Vào thời trung cổ, phát động các cuộc thánh chiến nhằm dành lại Đất Thánh từ tay người Hồi Giáo; Mở tòa án Qui Tà để xét xử và ra những bản án nhiều khi bất công dành cho các người phù thủy và dị giáo. Có những lần kết án sai lầm như trong vụ án xét xử Galilêô...

Đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta phải làm gì để noi gương trung thực khiêm tốn và can đảm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước những lỗi lầm khuyết điểm mà chúng ta đã phạm đối với Thiên Chúa và tha nhân ?

2) TIỀN HÔ LÀ SỨ MỆNH LÀM CHỨNG CHO ÁNH SÁNG :
Gioan đã thi hành sứ mệnh Tiền Hô cho Đức Kitô như sau :

+
Gây thiện cảm : Bằng một lối sống đạo đức khổ hạnh, ông đã gây được thiện cảm của dân chúng và họ đã đến với ông rất đông.

+
Rao giảng : Ông giúp họ chuẩn bị tâm hồn đón Đức Kitô bằng việc khiêm nhường thú nhận tôi lỗi của mình và chịu phép Rửa sám hối.

+
Chỉ cho người ta biết và đi theo Chúa Giêsu : Từ đây, vai trò tiền hô của ông đã kết thúc để nhường chỗ cho Chúa Giêsu xuất hiện như ông đã nói với các môn đệ rằng : "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3,30).

Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta phải làm gì để giúp người ta nhận biết Chúa Giêsu là Đức Kitô Cứu Thế và đi theo làm môn đệ Ngài. Ta sẽ làm gì để noi gương khiêm nhường và trung thực của Gioan Tẩy Giả khi ông nói về Chúa Giêsu như sau : "Ngài phải được nổi bật lên, còn tôi cần phải lu mờ đi ? '.

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Chúa Giêsu,

chúng con đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian mong chờ Chúa tái lâm để kiến tạo một "Trời Mới Đất Mới". Trong những ngày này, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan để chuẩn bị đón rước Chúa bằng một đời sống hãm mình khắc khổ, biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con, bằng những lời chia sẻ giúp đỡ những người thân của chúng con như con cái, bạn bè...ngày một

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. / Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

2) Lạy Thánh Mẫu Maria,
xưa Mẹ đã từng sống một cuộc đời bác ái, xin vâng và phục vụ. Mẹ đã mở lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể bằng hai tiếng "Xin Vâng" khi sứ thần đến truyền tin và sau đó Mẹ đã đem Chúa đến thăm và ban niềm vui cứu độ cho gia đình Giacaria là đại diện của nhân loại chúng con. Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, xin Mẹ thương giúp chúng con biết chuẩn bị tâm hồn để xứng đáng đón rước Chúa Hài Đồng ngự trong lòng chúng con. Xin Mẹ cũng giúp chúng con biết luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng nhân của Chúa Giêsu, bằng đời sống tốt lành đạo đức, luôn vị tha bác ái và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ nhận biết Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế và đi theo Ngài để được cứu độ. Amen.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. / Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

CHÚA NHẬT THỨ BA MÙA VỌNG
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
John Nguyễn

1. Thiên Chúa cần người làm chứng cho Ngài
Qua bài Tin Mừng, ta thấy khi Đức Giê-su đến trần gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của Ngài, và người ấy là Gio-an Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt lịch sử Giáo Hội, thời nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng cho Ngài, cho sự thật, cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói lịch sử của Giáo Hội là một lịch sử của «làm chứng» và «rao giảng». Rao giảng là để giúp người ta hiểu, nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.

Hiểu và tin là hai chuyện rất khác nhau. Nhiều người hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người tìm hiểu Ki-tô giáo không phải để tin theo, mà để bài bác một cách «nói có sách, mách có chứng». Ngay trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người có đời sống thực tế chứng tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào điều họ vẫn rao giảng một cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động nhất là trường hợp của Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.

Gandhi rất hiểu, rất yêu mến, rất đồng cảm với Đức Giê-su, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ bỏ và yêu thương của Đức Giê-su một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Ki-tô hữu), nhưng ông hoàn toàn không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Ông đã lên tiếng có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông : «Nếu những người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết». Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh - cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông đã từng tự hỏi: sự siêu việt của Kitô giáo - như các Ki-tô hữu thường tự hào - nằm ở đâu? Sự siêu việt đó chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ thể bằng thực tế hay bằng hành động được sao?

2. Ngày nay, nhiều giáo hội rao giảng nhiều hơn làm chứng

Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?

Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Ki-tô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Ki-tô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi rất nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Ki-tô hữu cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giê-su đến trần gian.

3. Tại sao phải làm chứng? Để người ta tin

Ngày nay, để tìm hiểu Ki-tô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Ki-tô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó vượt qua nếu không có một động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giê-su sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giê-su phần nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v… Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giê-su nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là rao giảng.

Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.

Những người ngoài Ki-tô giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Ki-tô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Ki-tô hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Ki-tô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!

4. Hãy xem Gio-an Tẩy giả làm chứng thế nào

Chính vì nói thế nào sống như vậy, nên Gio-an Tẩy giả đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo những gì ông yêu cầu: «Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan» (Mc 1,5). Gio-an là một khuôn mẫu điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng: «Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin» (Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng hơn làm chứng: «Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,2-3). Điều đó được thể hiện qua một số chi tiết:.Gio-an ăn mặc đơn giản: «mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da» (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: «đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài» (Mt 23,5); «ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng» (Mc 12,38). Gio-an sống khó nghèo, thanh đạm, «ăn châu chấu và mật ong rừng», còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ «nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ» (Mt 23,14). Gio-an thì khiêm nhường tự hạ: «Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người» (Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên: «Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc» (Mc 12,38-39).

Ta thấy khi làm chứng, Gio-an không màng tiếng khen, không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều người mang danh làm chứng cho Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng cho mình, để mình được khen ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị… Nhưng điều quan trọng nhất của người làm chứng là phải dám nói sự thật.

5. Người làm chứng phải dám nói sự thật

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gio-an đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ông không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi, nhưng ông lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ông không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Không thể lấy cớ bảo vệ tôn giáo để nói sai sự thật, để hùa theo những kẻ sai trái. Tôn giáo mà cần dối trá hay hùa theo quyền lực để tồn tại là thứ tôn giáo bỏ đi, không giá trị. Đức Giê-su không hề bảo vệ uy tín cho giới lãnh đạo tôn giáo khi họ vẫn ngoan cố với những điều sai trái (x. Mt 23). Gio-an Tẩy Giả cũng không bảo vệ uy tín của nhà vua khi nhà vua cố tình làm điều sai trái (x. Mt 14,3-12). Chính vì thế, Gio-an đã bị trảm quyết, còn Đức Giê-su đã bị coi là kẻ phá hoại tôn giáo! Ngài đã coi sự thật cao trọng hơn chính tôn giáo! Theo Ngài, bảo vệ sự thật mới chính là bảo vệ tôn giáo. Còn bảo vệ tôn giáo bằng cách nói sai sự thật, hay hùa theo quyền lực sai trái chính là phá hoại tôn giáo từ bản chất!

Khi ta làm chứng cho chân lý, chắc chắn sẽ có những người bạn khuyên ta: «Anh thật là dại dột, can gì phải làm cho người ta ghét mình như vậy?» Nói như thế, họ mặc nhiên cho rằng những người như Đức Giê-su hay Gio-an Tẩy giả chính là phường dại dột! Thế mà họ vẫn tuyên xưng Đức Giê-su là Thầy của họ. Thật mâu thuẫn!

Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Thời nào cũng có vô số người sẵn sàng rao giảng sự thật, nhưng rất hiếm người sẵn sàng làm chứng cho sự thật. Nhưng sự thật chỉ có thể tin khi có người dám làm chứng. Làm chứng thì phải trả giá, đôi khi rất mắc. Con có sẵn sàng làm chứng không

VAI TRÒ CỦA GIOAN TẨY GIẢ
Ga 1, 6 - 8. 19 – 28
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Trong xã hội con người, mỗi người đều được phân công làm một công việc nào đó. Có người lãnh đạo, có người lao động trí óc, có người làm việc chân tay. Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi phần vụ. Điều quan trọng là mỗi người có hoàn thành vai trò của mình hay không. Gioan Tẩy giả theo Tin Mừng của thánh Máccô là kẻ dọn đường cho Chúa, nhưng Gioan thánh sử lại nói Gioan Tẩy giả là người làm chứng cho ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô.

GIOAN LÀ AI ?
Gioan tẩy giả là một con người độc đáo, một con người nắm giữ một vai trò rất quan trọng, nhưng hoàn toàn nhỏ bé, âm thầm. Gioan Tẩy giả không phải là Đức Kitô, chẳng phải là Elia, Giêrêmia, hay là một ngôn sứ, chẳng là gì cả.

Gioan Tẩy là chỉ là tiếng kêu trong Sa mạc, một tiếng kêu xem ra đơn điệu và lẻ loi. Gioan Tẩy giả chỉ là một người được Thiên chúa sai đến: "...để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng Ông đến để làm chứng về ánh sáng " (Ga 1,6-8). Ông làm chứng bằng tiếng hô to: sám hối và việc làm của Gioan là thanh tẩy khi những người đến với Ông bên dòng sông Giođan đã xưng thú tội lỗi, cầu xin ơn thứ tha.

Ông thực hiện những việc ấy với tư thế của một con người khiêm hạ nhất là không đáng cởi giây dép cho Đấng thiên sai. Thánh Gioan tẩy giả đã làm hết mình, sống đúng ơn gọi và vai trò tiên tri của mình. Ông đã tin, nên ông làm chứng cho niềm tin của Ông, Ông là chứng nhân cho Đấng Cứu Thế sắp tới. Ông tin vào Đấng Cứu Tinh Giêsu Kitô, Ông rao giảng, loan báo về Ngài cho những người khác dù rằng lời loan báo đó xem ra rất lẻ loi, như tiếng hô trong sa mạc bao la, rộng lớn.

CON NGƯỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ GỢI CHO MỖI NGƯỜI VAI TRÒ CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH

Câu chuyện của Gioan Tẩy giả luôn gợi lại vai trò chứng nhân của mỗi người Kitô hữu. Các tông đồ xưa đã lãnh nhận Chúa Thánh thần trong ngày lễ Ngũ tuần. Nhân loại có thể hình dung ra ngọn lửa đức tin của các tông đồ đang hừng hực cháy. Nó được đốt lên từ ngọn nến đức tin của các tông đồ và ngọn lửa đó đang được các tông đồ, cùng muôn vàn người khác chuyển lửa đó đến mọi thế hệ.

Chúa nói: "Anh em hãy tới với muôn dân,làm cho họ trở thành môn đệ của Ta..." (Mt 28,18 ). Lời của Chúa mời gọi mọi người có lòng tin làm chứng cho Chúa phục sinh. Vai trò của Gioan Tẩy giả vẫn tỏa sáng và đòi hỏi mọi người có đức tin hãy dọn đường cho Chúa, hãy làm chứng cho Chúa. Điều còn lại ở muôn thời, muôn thế hệ là mọi người Kitô hữu có dám sống cái nghịch lý của Tin Mừng hay không? Người Kitô hữu có dám sống, có dám làm chứng như Gioan Tẩy giả xưa không? Dám sống và làm chứng cho Chúa Cứu Thế nghĩa là dám chấp nhận để Chúa lớn lên trong ta và đẩy lùi, triệt tiêu tất cả những gì không tốt, những gì nghịch với Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống cái đảo lộn của Tin Mừng, biết đương đầu và chấp nhận lướt thắng những thách đố xem ra hết sức vô lý để làm chứng cho Sự Thật, Sự Sống và Đường là Chúa Giêsu Kitô.

Nguồn vietcatholic.org

 

1573    12-12-2014 06:46:28