Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Chúa Nhật III Mùa Chay A

  1. Nước Hằng Sống
  2. Đổi Mới
  3. Chúa Giêsu Nguồn Nước Hằng Sống
  4. Sự Tôn Thờ Đích Thực
  5. "Nước Hằng Sống" Chính Là Đức Giêsu
  6. Đón Nhận Đức Giêsu Là Nước Hằng Sống Để Được Cứu Độ
  7. Nước Hằng Sống
  8. Nước Hằng Sống
  9. Nước Hằng Sống
  10. Hạnh Phúc Thật
  11. Lớn Lên Trong Dòng Nước Hằng Sống
  12. Ai Là Người Đàn Bà Samaria, Ai Là Chúa Giêsu Đối Với Tôi?
  13. Xin Cho Ðược Uống Nước Hằng Sống
  14. Tiến Trình Mạc Khải Vào Mầu Nhiệm Đức Tin
  15. Bước Đường Của Niềm Tin
  16. Gặp Gỡ, Biến Đổi Và Ra Đi...
  17. Gặp Gỡ Đức Kitô
  18. Nhịp Cầu Thiêng Liêng
  19. Ơn Cứu Độ Chứa Chan Nơi Đức Kitô
  20. Ta Sẽ Cho Nước Hằng Sống
  21. Nước Tôi Cho Sẽ Đem Lại Sự Sống Đời Đời
  22. Nước Trường Sinh
  23. Đức Kitô - Mạch Nước Hằng Sống
  24. Đức Giêsu Là Ai ?

NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát nữa ...

Anh chị em thân mến,

Trong sinh hoạt của con người, Nước là một vật hết sức quan trọng và rất cần thiết. Thể xác con người cần có nước mới sống được. Người ta có thể nhịn ăn cả tháng trời, nhưng không thể nhịn uống... Mức độ nhịn uống chỉ vài ngày mà thôi. Trên trái đất, nước chiếm 2/3 diện tích và Nước rất cần cho sự tưới tiêu. Ngay cả cây cỏ cũng như súc vật, không có nước, sẽ chết hết... Trái đất này nếu không có nước, cũng chỉ là một hành tinh chết mà thôi, vì từ con người, đến súc vật, đến cây cỏ, nếu không có nước, số phận chắc chắn là phải chết.... Câu chuyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria hôm nay xoay quanh một chủ đề: Nước (nước hằng sống). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài từ:
Samaria : Nước Do thái từ Bắc xuống Nam dài khoảng 300 km, chia làm 3 miền rõ rệt. Miền Bắc: Galiêa - miền Nam : Giuđêa - miền Trung: Samaria . Mỗi miền có lối phát âm cách riêng biệt như người Việt Nam chúng ta. Riêng miền Trung (Samaria), miền này bị kể là dân ngoại. Người Do thái kỳ thị và khinh thường họ, cho dân Samaria là dân hợp chủng. Một người Do thái đàng hoàng không được phép nói chuyện và cả xin nước uống từ bất cứ chiếc bình nào của người phụ nữ Samaria .

Thờ Chúa trên núi này: vì người Do thái khinh thị và cắt đứt quan hệ với người Samaria, nên họ đã trả đũa bằng cách cho xây một đền thờ khác trên núi Garizim, cao 881m, mạn Nam thành Sikem. Có thể đứng bên giếng Giacop nhìn thấy núi này.

Thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật: Chúa muốn nhấn mạnh đã đến lúc không phải thờ Chúa trên núi này hay tại Giêrusalem, vì phải thờ phượng Chúa bằng thái độ nội tâm hơn là hình thức bên ngoài...

b/. Qua câu chuyện bên giếng Giacóp, chính Chúa Giêsu là người đi bước trước để gặp gỡ và cảm hóa người phụ nữ tội lỗi này. Chúa khởi sự từ việc Người khát nước và xin nước uống. Từ đó, Chúa hướng sự quan tâm của người phụ nữ sang thế giới khác, thế giới của tâm hồn. Dần dà, Chúa giải thoát khỏi những thiên kiến về sắc tộc, chính trị và tôn giáo. Phần chị ta, nhờ sự khéo léo của Chúa, lần hồi, chị ta khám phá ra người Do thái đang nói chuyện với mình là một tiên tri, là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi.

Điều kỳ lạ và bất ngờ là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria , bình thường khó mà xảy ra. Ít nữa chúng ta thấy có bốn trường hợp ngăn cách hai người này không thể gặp nhau: thứ nhất là vì sắc tộc: vì kỳ thị nên người Do thái không gặp gỡ tiếp xúc với dân Samaria , vì họ bị coi là tạp chủng, ngoại lai. Thứ hai là sự phân biệt nam nữ; vào thời đó gặp gỡ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ xa lạ là điều cấm, huống chi Chúa Giêsu lại gặp gỡ và nói chuyện với một người phụ nữ Samaria . Thứ ba: dù cả hai xứ, đều thờ chung một Giavê Thiên Chúa, nhưng dân Samaria bị khinh miệt như là dân ngoại, chung chạ với tà thần. Người Do thái liên hệ với họ sẽ bị ô uế. Thứ tư: một vị thánh như Chúa Giêsu mà lại nói chuyện với một người đàn bà tội lỗi, đang sống bất hợp pháp với 6 người đàn ông; rõ ràng dưới mắt người Do thái là một chuyện không thể được...

Qua câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã khéo dẫn đưa người phụ nữ Samaria đến nguồn nước hằng sống, thứ nước không chỉ để giải khát bên ngoài, nhưng có khả năng giải khát tâm hồn con người. Sau đó, người phụ nữ khi đã đón nhận nước hằng sống, đã trở thành chứng nhân, chạy đi báo tin cho người trong làng cùng biết và cùng đến với nước hằng sống là Đức Giêsu Kitô. Một câu chuyện thật nên thơ, nhưng cũng đầy ý nghĩa, cũng là bài học lớn cho mỗi người kitô hữu chúng ta.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta có tin Chúa Kitô là nước hằng sống không? Khi đã tin, ta có sẵn sàng đem chia sẽ niềm tin đó cho người khác không?

ĐỔI MỚI
Ga 4, 5 - 42

Anh chị em thân mến.

Nếu có dịp đi qua bến phà hay những nơi công cộng, anh chị em nhìn thấy những cảnh hết sức thương tâm của người dân Việt Nam , đó là cảnh người nghèo đói còn quá nhiều. Những người ăn xin hiện diện khắp nơi, với những kiểu dáng hết sức phong phú, làm động lòng trắc ẩn khách đi đường. Họ cố gắng dùng mọi cách để làm sao kiếm được những đồng tiền để sinh sống. Nhiều vị khách đã động lòng mở rộng vòng tay nhân ái để giúp cho họ. Nhưng có phải vì túng thiếu không có phương tiện cần thiết để sống, nên họ mới chọn phương cách này không? Có người là như thế. Nhưng cũng có người không phải thế. Họ chọn việc ăn xin như là một nghề nghiệp của mình và không muốn từ bỏ nó, chứ không phải vì túng thiếu nên họ mới rơi vào tình trạng như thế, nên họ không muốn thay đ ổ i cuộc sống của mình, họ muốn ở mãi trong tình trạng đó, vì nó đem lại cho họ nguồn lợi. Họ vẫn biết việc làm của mình không hay lắm, nhưng vì đồng tiền mà quên đi danh dự.

Chúng ta vừa chứng kiến một phong cảnh đẹp của Phúc Âm . Nơi bờ giếng Chúa Giêsu hoán cải được một thiếu phụ, cũng từ đó Ngài làm cho cả dân làng có được một niềm tin và một sức sống mới. Ngài không bắt ép họ, nhưng gợi ý và để họ tự do hành động. Họ đã biết lựa chọn và hành động đúng.

Nếu người thiếu phụ đó cứ giữ mãi sự hiềm khích trong lòng cùng với sự căm hờn, nếu bà ta ích kỷ nhỏ nhen mà không nán lại một chút, chỉ biết lo trốn chạy vì sợ mất thời gian của mình trong một việc vô ích, thì làm sao bà ta nhận ra được hồng ân Thiên Chúa ban cho mình. Nếu chị ta nóng nải bỏ đi ngay tức khắc thì dân làng làm sao có thể nhận ra Đấng Cứu Độ đang đến với mọi người. Chúa Giêsu đến với mọi người, nhưng Ngài cũng chờ đợi mọi người biết đứng lên để đến với Ngài. Dân làng đã làm được điều đó, họ đứng lên và chạy đến với Ngài, nên họ nhận ra được hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho họ. Chính vì sự hy sinh nhẫn nại của một người mà cả dân làng mới có cơ hội tiếp nhận được hồng ân quý báu, và cũng nhờ họ có một tâm hồn quảng đại, biết lắng nghe nên họ đ ược hơn điều mình mơ tưởng.

Cơ hội không bao giờ thiếu cho con người, chỉ có con người không biết đón nhận và không biết tận dụng mà thôi.

Cơ hội cũng đến với chúng ta thật nhiều lần trong cuộc sống, cũng nhiều lần chúng ta bỏ qua một cách vô tình, có khi còn cố ý để cho cơ hội qua đi để tránh sự phiền phức.

Biết bao nhiêu lần vì ích kỷ sợ mất thời giờ quý báu của mình, chúng ta không chịu lắng nghe, nên không thể nghe được những điều hữu ích cho cuộc sống. Nhiều lần vì sự hiềm khích, vì nóng giận, vì sự tự ái trong người chúng ta quá lớn, nên chúng ta không có kiên nhẫn chấp nhận người khác, những lúc đó chúng ta cũng bỏ qua cơ hội ngàn vàng để biết đứng lên và quay trở về với Chúa. Cũng nhiều lần vì sợ mất đi những gì mình đang có như : thời giờ, tiền của, danh vọng, hay những thú vui trong cuộc sống, nên chúng ta cũng không thể lắng nghe để làm cho đời sống mình trở nên tốt hơn, đồng thời giúp cho những người chung quanh được lợi ích nhiều hơn. Chính những lần như thế, không phải là chúng ta không có phương tiện để sống tốt, nhưng vì mình không muốn. Như thế chúng ta không phải như những người ăn xin không phải vì hoàn cảnh, nhưng vì muốn làm nghề ăn xin và không muốn vươn lên. Không lẻ đời sống con người của chúng ta không thể đỗi mới được mà cứ phải lầm lủi trong bóng đêm mãi sao.

Nếu chúng biết mở rộng vòng tay ban phát những gì mình có cho những người cần đến, nếu chúng ta biết nhắt bước chân của mình để mang niềm vui đến cho người khác như người đàn bà bên bờ giếng, nếu chúng ta biết mang con tim yêu thương đến cho mọi người bằng hành động trong cuộc sống, khi đó chúng ta cũng dám nói như những người trong làng: bây giờ không cần chị nói, nhưng chính chúng tôi đã nghe và đã biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian.

Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.

CHÚA GIÊSU NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42

Một trong những nhu cầu cần thiết và quan trọng cho sự sống của mọi sinh vật trên mặt đất này là nước. Những người nông dân nào có nhiều kinh nghiệm chắc hẳn sẽ thuộc nằm lòng câu tục ngữ: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Ðể cây trái có thể sống và phát triển xanh tốt người dân phải siêng năng cung cấp đủ nuớc cho chúng. Có lẽ hình ảnh người dân trên tay cầm thùng, gàu hay ống nước là một trong những hình ảnh đẹp nhất ở vùng nông thôn. Cũng vậy một trong những nỗi khổ nhất của con người là mỗi khi thiếu nước sinh hoạt . Trong cái nhìn đó Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết có một nguồn nước cần thiết và quan trọng hơn. Ðó là Nước Hằng Sống do Chúa Giêsu mang đến.

Bài đọc 1 cho thấy dân Do thái trong sa mạc đã kêu trách ông Môisen vì họ đang khát nước. Ông cầu cứu với Chúa. Người kêu ông cầm gậy đập vào tảng đá tức thì nước từ tảng đá ấy chảy ra cho dân uống (Xh 17, 3 - 7). Nhờ có n ước đó mà dân Do thái được sống. Sang bài Tin mừng Chúa Giêsu đã gặp một phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp. Sau khi trao đổi với chị về nước uống hiện tại, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời". (Ga 4, 13 -14). Nghe lời ấy chị ta vội vàng xin Chúa Giêsu: "Th ưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15b). Chắc chắn đây cũng là ao ước của mỗi người chúng ta.

Ai trong chúng ta cũng muốn được sống. Sống thì phải dồi dào, phải sung túc chứ không èo ọt hay suy dinh dưỡng. Nước là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và phát triển sự sống. Ðối với sự sống tạm bợ nay còn mai mất còn cần đến nước, huống chi là với sự sống đời đời. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp đã được Chúa Giêsu ban cho nguồn nước hằng sống. Chị đã biết đón nhận với tất cả niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.

Mùa Chay là mùa mà chúng ta được kêu gọi để nhìn lại chính mình trước Chúa. Nhìn lại để thấy mình mỏng dòn và yếu đuối như thế nào. Càng thấy mình yếu đuối bao nhiêu thì chúng ta mới thấy mình cần Chúa bấy nhiêu. Một cây héo lá mới cần nước, một người cảm thấy khát nước thật sự mới thấy mình cần phải uống nước.

Tác giả Thánh vịnh 42 đã thưa lên cùng Chúa:
"Như nai rừng mong mỏi
Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông mông
Tìm đến Ngài, lạy Chúa "
.

Xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta biết tin vào Người, biết khao khát sự sống từ nơi Người mang đến. Ðể rồi chúng ta biết siêng năng đến và gắn bó với Người nhiều hơn.

SỰ TÔN THỜ ĐÍCH THỰC
Ga 4, 5 - 42

Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu là suối nước hằng sống. Chính Ngài mang lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai đón nhận Ngài. Đó chính là điểm chính yếu của Bài Tin mừng. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn có một điểm chính yếu quan trọng nữa. Đó là việc Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy thế nào là việc tôn thờ Thiên Chúa cách đúng đắn và đích thực : "Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những ngườI thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phương NgườI như thế. Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phương NgườiphảI thờ phương trong thần khí và sự thật.'

1. THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA TRONG THẦN KHÍ:

Dân Do thái quan niệm rằng : Thiên Chúa là của riêng họ, đứng về phía họ để chiến đấu chống lạI các dân tộc khác. Họ cũng cho rằng: Thiên Chúa chỉ cư ngụ tại một nơi nào đó cụ thể, chẳng hạn như trong lều trạI chứa Hòm Bia giao ước, hay trong Đền Thờ Giêrusalem. VớI quan niệm như thế, Thiên Chúa của chúng ta mang đầy giớI hạn. Ngài cũng giống như một con ngườI biết yêu, giận, ghét, hữu hạn trong không gian và thờI gian.Thiên Chúa đã chấp nhận tất cả những gì con ngườI gán ghép cho Ngài như thế vì lòng yêu mến họ và Ngài muốn dẫn họ từng bước tiến đến chân lý đích thực qua thời gian.

Giờ đây, Đức Giêsu bắt đầu nâng tầm hiểu biết của họ về Thiên Chúa lên một tầm vóc mới.. Họ phảI tập nhìn và hiểu biết Thiên Chúa cách đúng đắn. Thiên Chúa chính là Đấng toàn năng, là Đấng sáng tạo muôn loài và là Cha chung của hết mọI người. Ngài là Thiên Chúa toàn năng tuyệt đốI nhưng Ngài cũng rất gần gũI vớI con ngườI và hết lòng yêu thương con người.

Chúng ta phảI tôn thờ Thiên Chúa trong thần khí. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta, để Ngài giúp chúng ta hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa đúng như Ngài trong bản tính đích thực của Ngài... Một Thiên Chúa đích thực không thể bị giớI hạn bất kỳ điều gì trong không gian hay thờI gian; không thiên vị ai, nhưng yêu thương hết mọI ngườI, muốn cho mọI ngườI được sống và được cứu độ. Chúng ta không thể hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa nếu chúng ta không để cho Chúa Thánh thần hướng dẫn chúng ta. Chúng ta hãy phá tan những bức tường và rào cản nơi cõi lòng ta để Thần khí Chúa có thể đi vào và biến đổI lòng ta thành nơi tôn thờ Thiên Chúa đích thực .

2. TÔN THỜ THIÊN CHÚA TRONG SỰ THẬT

Có thể nói, tấ cả những hiểu biết tốt nhất của con ngườI về Thiên Chúa cũng chỉ đúng một phần nhỏ về Ngài mà thôi. Thái độ khôn ngoan ngoan nhất của con ngườI khi dùng ngôn ngữ của mình để nói về Thiên Chúa là phảI chốI ngay cách nói của mình sau khi nói về Ngài. Vì ngôn ngữ của con ngườI vô cùng giớI hạn. May ra có thể có thứ ngôn ngữ của con tim sâu kín và thinh lặng mớI có thể diễn tả được nhiều điều về Thiên Chúa mà thôi. Một con tim không thiên vị, không thành kiến, không ích kỷ sẽ làm cho con ngườI hiểu biết cách đúng đắn về Thiên Chúa.

Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏI là chúng ta đang tôn thờ Vị Thiên Chúa nào không. Vì rất có thể chúng ta đang tôn thờ một vị thiên chúa là sản phẩm do tay con ngườI làm ra. Hãy nhớ lạI trong lịch sử dân Do thái: Khi Môsê ở trên Núi thánh vớI Thiên Chúa, thì dân chúng bảo Aharon đúc cho họ một Con Bê để họ tôn thờ như vi thần minh của họ. Hay chúng ta hãy nhìn lãi xem trong lịch sử: nhân danh Thiên Chúa nào để dân Do thái đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá? Nhân danh Thiên Chúa nào để Giáo hộI có một thờI đã lập giàn hoả thiêu, thiêu sống những ngườI bộI giáo và ly giáo? . . . Khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa mà lòng chúng ta đầy dẫy những điều xấu, ích kỷ, tham lam, dâm ô . . . là chúng ta đang tôn thờ và chạy theo một vị thiên chúa do sản phẩm của con ngườI làm ra; một vị thiên chúa giả tạo.

Vị Thiên Chúa đích thực phảI là Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, một vị Thiên Chúa yêu thương hết thảI mọI ngườI và sẵn sang mở rộng vòng tay đón nhận tất cả mọI ngườI khi họ tìm đến vớI Ngài. Vị Thiên Chúa ấy là Cha của tất cả chúng ta, một ngườI cha tuyệt hảo và quảng đạI vô cùng. Vị Thiên Chúa đích thực được hoạ lạI cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Đức Giêsu Kitô chính là hình ảnh trung thực nhất về Thiên Chúa Cha. Hãy tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật - Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.

 "NƯỚC HẰNG SỐNG" CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU
Ga 4, 5 - 42
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao "Nước Hằng Sống". Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1.      Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc... Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" (Ga 4,9).  Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: 'Cho tôi chút nước uống', thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc..., nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là "ta và địch", trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.

Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.

Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một "tên Dothái". Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã "thưa ông". Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị "ngôn sứ" là Đấng "Mêsia". Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian. 

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là "Nước Hằng Sống".

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3.      Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất... Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà...

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ...người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui...

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục... nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục... thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: "Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn" (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa".

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau... Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên. 

ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ NƯỚC HẰNG SỐNG ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ
Ga 4, 5 - 42

1. LỜI CHÚA: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa" (Ga 4,13-14a).

2. CÂU CHUYỆN:

1) LỜI CHÚA CHÍNH LÀ NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG:

Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là "Ô Vi" (Eau Vive) dịch là "Nước Hằng Sống". Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là "Phục vụ Chúa trong các thực khách". Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh là Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp xưa.

2) PHẢI TÌM GẶP CHÚA NƠI THA NHÂN:

Vào một đêm trăng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già thấy một thiên thần đang ngồi viết vào một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ liền rón rén đến gần hỏi thiên thần:

- Ngài đang viết gì vào quyển sách vàng này thế ?

- Ta đang ghi tên những người có lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự.

Trong tâm trạng vừa lo lắng lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ đã yêu cầu thiên thần tìm trong cuốn sách xem đã có tên mình hay chưa. Thiên thần liền chiều ý để lần giở từng trang sách ra tìm, nhưng tìm từ đầu đến cuối cuốn sách vàng mà không thấy có tên ông ta. Vị tu sĩ vẫn không thất vọng, ông tiếp tục yêu cầu thiên thần:

- Vậy xin ngài hãy ghi tên tôi là kẻ luôn yêu mến phục vụ tha nhân.

Thiên thần liền ghi tên ông vào sổ vàng những người yêu mến Chúa.

Sau khi vị tu sĩ già qua đời, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký hằng ngày của ông. Trong đó ngay trên trang đầu tiên ông dã ghi Lời Chúa phán: "Nếu ai nói : Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu mến người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4,20). Tiếp theo lời Chúa này, vị tu sĩ còn giải thích thêm: "Tôi đã đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy vì linh hồn có đặc tính thiêng liêng; Tiếp đến tôi đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi cũng không tìm thấy vì Ngài vô cùng siêu việt; Mãi đến khi tôi quyết định đi tìm tha nhân thì tôi lại  gặp được cả Thiên Chúa và linh hồn mình nơi những người này" (Trích «Mỗi ngày một tin vui»).

3. SUY NIỆM:

Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để giúp chúng ta tìm gặp Đức Giê-su là nguồn nước đem lại sự sống đời đời. Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Người đã từng bước mặc khải Sự Thật về Người cho chị ta: Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, là một Ngôn Sứ, là Đấng Mê-si-a đến ban ơn cứu độ mọi người.

1) HỌC TẬP ĐỨC GIÊ-SU TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG:

Đức Giê-su đã hướng dẫn người phụ nữ theo một tiến trình đức Tin như sau:

- Người đi bước trước để ngỏ lời xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước giếng tự nhiên:

Đức Giê-su chủ động đi bước trước làm quen, vượt qua rào cản giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri để ngỏ lời xin một người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước như sau: "Chị cho tôi xin chút nước uống !" (Ga 4,7). Đây là phương pháp loan báo Tin Mừng hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta tiếp cận anh em lương dân để nói chuyện về tôn giáo với họ.

- Người đòi người phụ nữ phải tin vào Người để được Người ban cho Nước Hằng Sống là ơn cứu độ:

Từ việc xin nước uống tự nhiên, Đức Giê-su đề cập đến thứ Nước Hắng Sống là đức tin siêu nhiên đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống" (Ga 4,10). Phải biết bắt đầu từ những điều vật chất cụ thể để sẽ đề cập đến mầu nhiêm đức tin siêu vật chất. Đức Giê-su cũng nhiều lần đã dung các hình ảnh cụ thể vật chất đời thường trong các dụ ngôn để trình bày về Nước Trời.

- Người đòi người ta phải thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật:

Đức Giê-su cho chị phụ nữ kia biết chính thái độ ich kỷ tự mãn và khinh thường lẫn nhau đã tạo ra bức tường ngăn cách về đức tin giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri: Người Do thái đòi phải thờ Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, còn người Sa-ma-ri lại đòi phải thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ri-dim! Đức Giê-su đã giải đáp về sự thờ phượng đích thực như sau: "Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần Khí và Sự Thật" (Ga 4,24). Cần tập cầu nguyện với Chúa mọi lúc và mọi nơi chứ không nhất thiết phải có nhà thờ hay bàn thờ mới cầu nguyền được.

- Người mặc khải về sứ mạng Thiên Sai của Người:

Người phụ nữ Sa-ma-ri cho biết quan niệm về Đấng Thiên Sai của người Sa-ma-ri như sau: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Đức Giê-su liền mặc khải cho chị ta biết về vai trò Thiên Sai của Người như sau: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây" (Ga 4,26). Tất cả sự thờ phượng Thiên Chúa đều qui vè Chúa Giê-su, để nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.

- Người phụ nữ thể hiện đức tin bằng việc nhiệt thành làm chứng cho Người:

Sau khi đã tin Đức Giê-su là Ngôn Sứ và là Đấng Thiên Sai, người phụ nữ đã phấn khởi vào trong thành báo tin như sau: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?" (Ga 4,29). Nhờ lòng tin yêu Chúa mà người phụ nữ này đã nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho đồng bào của mình. Thực như lời thánh Phao-lô đã nói: "Tinh yêu Chúa Ki-tô thôi thúc tôi" (2 Cr 5,14).

- Nhờ gặp gỡ và nghe lời Chúa mà dân làng Sa-ma-ri đã đạt đến một đức tin trưởng thành:

Lúc đầu dân làng Sa-ma-ri đã ra gặp Đức Giê-su theo lời người phụ nữ kêu gọi. Rồi họ đã mời Đức Giê-su ở lại để được nghe loan báo Tin Mừng. Nhờ đó họ đã có đức tin vào Đức Giê-su chính là "Đấng Cứu Độ trần gian". Cuối cùng họ đã khẳng định với người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian" (Ga 4,42). Đây cũng là tấm gương cho những anh chị em tân tòng theo đạo để lập gia đình với người bạn công giáo. Họ phải làm thế nào để đạt tới đức tin trưởng thành như dân làng Sa-ma-ri nói trên.

2) PHẢI GẶP GỠ CHÚA LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÓ ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH ?:

Ngày nay chúng ta có thể gặp gỡ Chúa bằng nhiều hình thức như sau:

- Gặp Chúa trong tình yêu tha nhân: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8), nên chỉ những ai có tình yêu thương tha nhân mới gặp được Thiên Chúa. Còn những kẻ ganh ghét, để lòng thù ghét anh em thì thuộc về ma quỷ và sẽ không gặp được Thiên Chúa đời này và đời sau như thánh Gio-an đã viết: "Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân" (1 Ga 3,15).

- Gặp Chúa trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần: Ðức Giê-su nói: Ðã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật" (Ga 4,23).  Vì "Ðấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra"  (Cv 7,48). Do đó muốn gặp gỡ Thiên Chúa thực sự, ta cũng phải gặp Ngài trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần.

- Gặp Chúa trong tín thác vào Chúa Giê-su "là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6): Nhờ đức Tin, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa và Thánh Thể tại nhà thờ; Gặp Chúa khi đọc Lời Chúa giờ kinh tối gia đình hằng ngày hay các buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần: "Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đất, giữa họ" (Mt 18,20)

- Gặp Chúa trong những người đang sống chung trong một mái nhà hay đang ẩn mình nơi những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi... Ngoài ra để gặp được Chúa, chúng ta cần phải ăn ở thành thật "có nói có, không nói không" (Mt 5,36). Tránh ăn nói quanh co, lừa đảo, vì đó là hành vi của ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (x. Ga 8,44).

3) LÀM GÌ ĐỂ SỐNG VÀ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY ?:

- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giê-su trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình... Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ như lời Chúa dạy hôm nay: "Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa" (Ga 4,14a).

- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: "Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân". Câu chuyện sau đây chứng minh điều này: "Có một người đàn ông nọ mới theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông liền hỏi: "Anh theo đạo nhưng có biết Đức Giê-su là ai không ?" Người tân tòng trả lời: "Dĩ nhiên là biết chứ". Người kia hỏi tiếp: "Thế Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?" Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: "Thế Đức Giê-su chết khi được bao nhiêu tuổi ?" Một lần nữa, người tân tòng lại không biết. Người kia liền nói: "Anh chẳng biết gì về đạo. Vậy tại sao anh lại theo đạo ?" Bấy giờ người tân tòng mới nói: "Thú thật với anh: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi nhà để sống lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu và trở thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải nhìn thấy mặt ba của chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua cơn khó khăn: Ông giúp tôi có được một công việc thu nhập ổn định, và giúp gia đình tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản thân tôi trở thành một con người sống tiết độ và có trách nhiệm hơn đối với gia đình của mình. Hiện nay tôi đã đòi lại được căn nhà cũ trước kia. Vợ chồng tôi sống với nhau rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: "Chính Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua trung gian một vị linh mục !" Quả thật đúng như lời Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm nay: "Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời" (Ga 4,14b).

4. THẢO LUẬN:

1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng?

2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm sám hối... để biết rõ con người thật của mình. Xin cho chúng con năng uống Nước Hằng Sống là Lời Chúa dạy và Thánh Thể Chúa, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ tươi vui hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng loại trừ những thành kiến với tha nhân, để quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã nêu gương trong Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng con luôn cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô : "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa"; Xin giúp chúng con luôn thực hành Lời Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã căn dặn các người giúp việc yại tiệc cưới Ca-na xưa: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5b).- AMEN.

LM ĐAN VINH -  HHTM

NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nước là nguồn sống. Mọi loài thụ tạo đều cần có nước để bào tồn sự sống. Thiên Chúa ban dư tràn các nguồn nước từ trên cao mây trời, từ sông suối biển hồ và từ các nguồn mạch dưới đất. Nơi nào có nước, nơi đó có hiện hữu của sự sống và sự phú túc. Câu truyện dân Do-thái lữ hành trong sa mạc bị đói khát là lẽ thường vì sa mạc khô cằn và nắng cháy. Dân chúng kêu trách Môisen vì sự khổ sở thiếu thốn đủ thứ trên đường đi về miền Đất Hứa: Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng:"Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". (Xh 17, 3). Trong cuộc lữ hành, dân chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn nước tự nhiên của mưa sương và sông suối. Họ đã trải nghiệm sự đói, sự khát và sự thèm thuồng của ăn của uống. Cho nên họ đã phàn nàn kêu trách.

Chúa Giêsu đã cho quyền ông Môisen thực hiện một sự lạ lùng là dùng gậy đập vào tảng đá và nguồn nước sẽ vọt chảy cho dân uống. Sách Xuất Hành diễn tả biến cố có một không hai này: Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel (Xh 17, 6). Môisen đã dùng cây gậy để thực hiện nhiều phép lạ trên hành trình đi về Đất Hứa. Hôm nay, trước mặt các bậc kỳ lão và dân chúng, ông Môisen đã lo sợ và niềm tin bị chao đảo. Ông đã dùng gậy và đập vào tảng đá hai lần. Nước từ tảng đá đã chảy tràn lan lai láng. Nhưng Thiên Chúa thấu rõ sự kém lòng tin của ông, nên ông chỉ được phép lữ hành tới biên giới ngắm nhìn miền Đất Hứa mà không được vào. Ông đã chết trước khi đoàn dân tiến chiếm miền Đất Hứa.

Tôi có dịp hành hương Đất Thánh và đi thăm viếng một số nơi mà Chúa Giêsu đã có dấu chân của hai ngàn năm trước đây. Phúc âm kể rằng vào một buổi trưa hè nóng bức, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacób. Ngày xưa, các tổ phụ đã biết đào giếng để kiếm tìm nguồn nước dưới sâu trong lòng đất. Giếng nước nay thuộc quyền sở hữu của giáo hội Chính Thống Giáo. Hiện nay giếng nằm trong khu vực (West Bank) thuộc Samaria của người Palestine. Theo truyền thuyết từ lâu đời, giếng vẫn còn cung cấp nước sạch và chúng ta có thể uống thử nước từ nguồn. Chính nơi đây, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và đối thoại với người đàn bà Samaria. Chúa đã nhìn thấu rõ tâm hồn người đàn bà lầm lạc và đã mở lối giải thoát bà khỏi ràng buộc của tội lỗi. Chúa Giêsu đã giúp bà tìm đến ý nghĩa sự thật của cuộc đời. Bà đã đem chia sẻ kinh nghiệm đổi đời này với dân chúng trong thành. Giếng Giacób trở thành Giếng của sự thật (Well of Truth).

Trong cuộc đàm thoại với người đàn bà, Chúa Giêsu đã mạc khải cho bà về nguồn ân sủng, đó là nguồn nước trường sinh sẽ không bao giờ cạn: Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời" (Ga 4, 13). Từ câu chuyện đời thường, Chúa Giêsu đã khéo dẫn bà đi vào đời sống nội tâm và nhìn biết được chính mình. Biết phận mình, bà ra giếng giữa lúc trưa nắng để tránh gặp những người hàng xóm quen thuộc. Bà đã gặp được Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ cạnh giếng. Chúa Giêsu không ngần ngại khởi đầu câu chuyện xin người đàn bà cho nước uống. Thời đó, chúng ta biết giữa người Do-thái và người Samaria phân biệt không liên đới và không dùng chung các dụng cụ tại giếng. Ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên về cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà tội lỗi nơi công cộng. Nhờ cơ hội này, Chúa đã đi vào sâu thẳm trong tâm hồn khao khát sự thật của bà. Chúa đã giải thoát cho bà.

Người đàn bà đã thắc mắc với Chúa về sự thờ phượng nơi đâu cho đúng. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã đánh tan mọi giới hạn ngăn cản. Chúa Giêsu không đứng về phe phái nào cả và sự thờ phượng Thiên Chúa không tùy thuộc vào nơi này hay nơi kia, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Đây là một câu trả lời cách mạng của sự thật: Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem (Ga 4, 21). Con người chúng ta thường câu nệ vào những hình thức bên ngoài và xây lên những bức tường chia rẽ để ngăn cách nhau trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phá đổ những khuôn mẫu mà con người vì ghen tương đã dựng xây. Chúa dẫn con người đi vào tận thâm tâm sâu thẳm của trái tim chân thật.

Đến thăm viếng thành thánh Giêrusalem hiện nay, chúng ta thấy các tường thành được xây dựng khắp nơi. Các khu vực tôn thờ bị chia cắt và tranh dành quyền sở hữu. Địa sở thành Giêrusalem trở nên nơi tranh chấp và bị chiếm hữu thế tục. Nơi đây là tấc đất tấc vàng. Mỗi nhóm tôn giáo cố gắng sở hữu một khu vực để gọi là thờ phượng và lưu giữ truyền thống. Vùng đất Chúa Giêsu đã đi qua, nhưng Ngài đã không để lại một dấu vết cụ thể nào. Vì Chúa muốn xây dựng đền thờ trong tâm hồn con người. Chúa phán: Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn (Ga 4, 23). Chúa Giêsu muốn chúng ta tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, chứ không hệ ở đền thờ vật chất hoành tráng hay bằng môi miệng trống rỗng hoặc những hình thức hiến dâng lễ tế chiên bò. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở rằng Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ.

Chúa Giêsu đã mở lòng người đàn bà Samaria. Bà đã đón nhận nguồn nước sự sống trường sinh. Bà đã tìm ra sự thật của việc tôn thờ Thiên Chúa trong thần trí. Bà đã thấy và đã tin vào Chúa Giêsu. Bà trở thành nhân chứng của nước trời mang tin vui cho những người chung quanh. Dù bị xem là người dân ngoại, bà đã có lòng tin trở lại. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho dân thành Rôma đã công bố: Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa (Rm 5, 2). Đức tin dẫn đến ân sủng. Tin vào Chúa Giêsu là cửa ngõ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Niềm tin là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta rằng tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người và mọi sự sẽ được ban cho.

Cậy trông vào Chúa là chìa khóa mở cửa dẫn chúng ta vào quê thật. Chúa Giêsu mở lòng người đàn bà đến với sự thật tinh tuyền. Sự thật được gột rửa bởi sự đơn sơ thanh sạch trước nhan Chúa. Sự thật được phơi bầy xóa nhòa mảnh hồn tội lỗi chất chồng của người đàn bà Samaria. Chúa Giêsu đã tưới gội tâm hồn của bà bằng dòng nước trường sinh. Nguồn ân sủng của Chúa Thánh Thần như nguồn nước thấm nhập vào đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Các nhân đức hòa trộn dẫn dắt chúng ta đến Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ. Thánh Phaolô dạy: Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta (Rm 5, 5). Chúa Thánh Thần sẽ tác động làm đổi mới tâm can và canh tân mọi sự.

Lạy Chúa, xin cho nguồn nước hằng sống tuôn đổ vào tâm hồn, để chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa. Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội lỗi và ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương chân thành.

NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mùa chay giúp chúng ta nhìn lại cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Chúa nhật I Mùa chay, Chúa Giêsu đã vượt thắng tội lỗi, chiến thắng ma quỷ. Chúa nhật II Mùa chay, ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu Phêrô, Giacôbê và Gioan được chiêm ngưỡng sự biến hình của Chúa Giêsu. Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đem lại nguồn nước mới, nguồn sức sống cho bất kỳ ai, không phân biệt bất cứ ai, tin nhận Ngài là Đấng Cứu thế.

Câu chuyện người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacop xưa là một áng văn quá tuyệt vời của thánh Gioan. Nó thi vị không phải người phụ nữ bên bờ thành giếng hằng ngày tới múc nước. Nhưng nó thật gợi cảm và thi vị khi người phụ nữ gặp được chính Chúa Giêsu, và Ngài đã làm cho người phụ nữ này tin và đón nhận Chúa. Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay tuy hơi dài nhưng quả thực câu chuyện và áng văn quá hấp dẫn đến nỗi đoạn Tin Mừng này làm cho chúng ta không hề chán. Chúa Giêsu đi đến một thành Samari, một thành của người ngoại. Câu chuyện được bắt đầu với việc một người phụ nữ Samari mang gầu đến giếng múc nước. Trông thấy chị, Chúa nói : " Chị cho tôi xin chút nước uống ! "... Người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên vì người Do Thái không được liên lạc với người ngoại giáo. Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối của Chúa, Ngài dẫn con người từ chỗ này tới chỗ nọ, từ đường này tới đường khác...Từ việc xin nước, Chúa Giêsu đã chỉ cho người phụ nữ Samari khao khát nước hằng sống : " Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống đời đời " ( Ga 4, 14 ). Chị đã bị khuất phục và nằng nặc xin Chúa thứ nước hằng sống. Chúa Giêsu đã đưa chị từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ việc Ngài bảo chị gọi chồng chị đến cho tới việc Ngài nói với chị : " Chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị " ( Ga 4, 18 ). Sự ngạc nhiên đến thán phục, người phụ nữ Samari đã nhận ra Chúa và tin vào Ngài khi Đức Kitô xác nhận : " Đấng Messia, Đấng ấy chính là ta, người đang nói với chị đây " ( Ga 4, 26 )
.
Câu chuyện có hồi kết thật có hậu... Chị về kể lại cho mọi người trong làng nghe...mọi người đều thán phục Đức Kitô, tuy nhiên dân chúng không chỉ nghe người phụ nữ này kể lại sự việc Đức Kitô đã nói về mình rồi họ tin, nhưng chính họ lại làm chúng ta ngạc nhiên hơn khi xác định : " Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin.Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian " ( Ga 4, 42 ).

Chúa Giêsu đã có mặt mọi nơi, mọi chỗ để tỏ lộ lòng thương xót của Ngài đối với con người, đối với mọi người. Xưa Chúa đến với người phụ nữ Samari để làm cho chị và nhiều người tin và nhận ra Người. Và như thế, khi đọc Tin Mừng của Đức Kitô, chúng ta bắt gặp Con Người thật : Đức Kitô đang mạc khải tình thương của Ngài cho nhiều người, đặc biệt Ngài đến với những con người tội lỗi, đến với những con người nghèo hèn, khốn khổ, thấp cổ bé họng... Chúa đến làm cho người mù được thấy, kẻ quẻ được đi, kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được, người chết sống lại. Lòng thương xót của Chúa thật bao la, vô biên... Do đó, chắc chắn Ngài vẫn tiếp tục đến với chúng ta để đem lại cho chúng ta tin vui cứu độ và giáo lý tình thương, để mọi người được chứa chan tình thương, được dòng suối ân sủng tưới gội, được lương thực thiêng liêng làm no thỏa tâm hồn... Nên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta mau mắn tìm gặp Chúa, đặc biệt trong Mùa Chay. Chúng ta đừng chần chừ đi tìm gặp Người. Những thái độ nản chán, ích kỷ, ươn hèn là những thái độ không xứng đáng để con người có thể gặp Chúa. Khôn ngoan, chóng vánh, tỉnh thức là những thái độ cần thiết và thích hợp để đi tìm gặp Chúa. Hình ảnh năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại dạy chúng ta nhiều điều. Việc năm cô khôn mang đèn và mang dầu theo là thái độ chúng ta phải có. Chúa đã đi bước trước để gặp gỡ người phụ nữ Samari...Chúng ta có mắn đến với tha nhân hay chỉ ngồi chờ đợi người ta đến với chúng ta trước ? Chúa sẵn sàng ban phát ơn lành, còn chúng ta có biết cho đi hay chỉ biết đón nhận ? Chúa đã đi bước trước đến với người phụ nữ ngoại đạo và là một phụ nữ tội lỗi. Chúng ta có dám vượt qua những rào cản ích kỷ để đến với anh chị em đang cần sự giúp đỡ, chỉ bảo của chúng ta không ?

Lạy Chúa, Chúa đã đến với người phụ nữ Samari để giúp chị nhận ra và tin vào Chúa, đồng thời nhận ra chính chị, nhận ra con người thật của chị. Chị đã được ơn sám hối và được biến đổi hoàn toàn. Xin Chúa hãy đến với chúng con trong mùa chay này để chúng con hiểu Chúa rõ hơn, và để chúng con hiểu chúng con hơn. Xin Chúa dùng lời Chúa để dạy dỗ chúng con, làm tươi lại cuộc đời xem ra khô cằn của chúng con. Xin Chúa biến đổi đời sống chúng con. Amen.

NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nhật thứ 3 mùa chay có thể nói gợi lên cho tất cả những ai theo Chúa về một cuộc gặp gỡ diệu kỳ giữa Đức Kitô và người phụ nữ ngoại giáo Samari. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu này làm cho mọi người chúng ta hiểu hơn về Đức Kitô, Đấng luôn tạo cho chúng ta cơ hội gặp gỡ Ngài...

Người phụ nữ Samari được gặp một Đấng mà chị không bao giờ ngờ tới. Bởi vì, Đấng ấy ngồi nghỉ bên bờ giếng và người nữ Samari đi kín nước bình thường như mọi ngày, chị không hề hay biết Đấng ngồi nghỉ bên chân giếng và chị cũng chẳng có ý định gặp Chúa Giêsu. Việc tình cờ của người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu hôm nay làm cho chị hết sức ngạc nhiên. Chúa Giêsu không phải vì khát nước mà xin chị cho Ngài uống nước giếng tổ phụ Giacóp đã để lại, nhưng Chúa tạo cơ hội xin nước để gợi ý, trò chuyện và giới thiệu cho chị Samari một vấn đề hết sức quan trọng, một việc cao cả mà chị chưa bao giờ được nghe ai nói tới. Ngài muốn nói với người phụ nữ rằng chị là người đang khát và tỏ cho chị hay Ngài là ai, là Người sẽ làm cho chị hết khát, khỏi phải hằng ngày đi kín nước: " Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa ".

Nước Chúa sẽ cho là nước hằng sống. Nước ấy chính là Lời của Chúa. Lời bầy tỏ sự kín nhiệm của Người và Lời ấy sẽ vạch rõ quá khứ, hiện tại và tương lai của con người. Chúa đã nói về quá khứ người phụ nữ Samari đã có năm đời chồng rưỡi. Do đó, chị đã nhận ra Ngài là một tiên tri. Và cuối cùng, chị đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Đây là một sự hết sức kỳ diệu, một phép lạ đã được tỏ lộ cho người phụ nữ Samari chứ không phải cho người Do Thái đồng hương, hay cho các môn đệ thân yêu của Ngài: " Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây " ( Ga 4, 26 ). Chị nữ Samari đã có một niềm vui to lớn, một hạnh phúc lớn lao, chị nong nả, vội vã đi loan báo cho dân làng về một Đấng Mêsia mà chị vừa gặp gỡ. Đấng đã thấu suốt quá khứ và hiện tại của chị, Đấng hứa cho chị uống thứ nước không hề khát. Chị muốn uống thứ nước đó và đồng thời cũng muốn cho dân làng của mình được uống thứ nước tuyệt vời, diệu kỳ ấy. Đấng ấy chính là Đấng Mêsia đến cứu độ nhân loại và ban cho nhân loại hạnh phúc tuyệt vời nếu nhân loại tín thác vào Ngài. Đấng sẽ ban cho nhân loại nước hằng sống nếu nhân loại thật lòng khao khát muốn uống thứ nước ấy. Đấng sẽ ban Lời, nếu nhân loại sẵn sàng đón nhận Lời và thực thi Lời trong đời sống thì Chúa sẽ cho họ được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).

Chúa Giêsu đã không uống nước giếng, cũng chẳng vào ăn cơm với gia đình của người phụ nữ Samari. Nhưng điều các môn đệ của Người sẽ rất ngạc nhiên và thán phục đó là: " Người luôn làm theo thánh ý Chúa Cha...và các linh hồn phải được cứu rỗi, là qua việc người nữ Samari kể lại với dân làng, là việc dân làng thấy Chúa và nghe Chúa nói, nhiều người đã tin vào Người " ( Ga 4, 35 ).

Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta cũng mau mắn gặp gỡ Người...Gặp gỡ Đức Kitô không chỉ là may mắn tình cờ, nhưng mọi người đều có thể, có cơ hội đi tìm gặp gỡ Chúa, đặc biệt trong mùa chay. Chúng ta hãy bắt chước năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn và mang theo dầu...Đức Kitô sẽ đến và chúng ta sẽ gặp được Người. Lời Chúa nói: " Này Ta đang đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe tiếng ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy ". Chúa có thể đã nhiều lần đến gõ cửa tâm hồn của chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta say ngủ, hay quên mang dầu để mở cửa đón Chúa. Nên, gặp gỡ Chúa có thể nói là hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta, vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. " Hãy tỉnh thức và cầu nguyện " để đón Chúa và gặp gỡ Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước người phụ Samari mau mắn loan báo cho dân làng, cho muôn người biết Đấng Mêsia, như thế chúng ta đã làm thỏa cơn đói của Chúa: " Lúa chín đầy đồng...".

Chúng ta hãy cùng với dân làng Samari và cùng với nhiều người loan báo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ trần gian như thế là chúng ta làm thỏa cơn khát của Chúa.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người nữ Samari đã làm thay đổi cả cuộc đời của chị như bài ca của Linh mục Giuse Tiến Lộc đã viết: " Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình...".

Vâng, chỉ có Đức Kitô mới giải đáp được những ưu tư, băn khoăn, lo âu, những khúc mắc của mỗi người chúng ta. Chỉ mình Chúa mới ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta phấn khởi mà sống giữa cuộc đời đầy gian nan, thử thách.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát và thứ nước đem lại cho chúng con ơn cứu độ, đó là Nước Hằng Sống. Amen.

HẠNH PHÚC THẬT
Ga 4, 5 - 42
Lm Giuse Dương Hữu Tình

Như chúng ta biết mục đích đầu tiên của 40 ngày chay thánh được đặt ra là vì lý do mục vụ. Đó là thời gian cần thiết để chuẩn bị tâm hồn cho những người sẽ lãnh bí tích rửa tội vào lễ Vọng Phục sinh. Điều này thể hiện rất rõ trong phụng vụ Lời Chúa các Chúa nhật cuối Mùa chay, cụ thể là các Chúa nhật III, IV và V. Trong các Chúa nhật này, Giáo hội chọn những bài Phúc Am rất tiêu biểu và phù hợp với đề tài bí tích rửa tội. Chúa nhật III được gọi là Chúa nhật Nước vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa Giêsu gặp phụ nữ Samaria tại giếng Giacob. Chúa nhật IV được gọi là Chúa nhật Anh Sáng vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh. Chúa nhật V được gọi là Chúa nhật Sự Sống vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am ghi lại sự kiện Chúa cho ông Ladarô sống lại (các bài Phúc Am của Chúa nhật năm A luôn được ưu tiên và có thể sử dụng cho tất cả các năm khác).

Trong Chúa nhật III mùa chay này, Nước là chủ đề chính. Bởi thế ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện trong Phúc Am bên cạnh một giếng nước có tên là Giacob. Một nhân vật nữa cũng xuất hiện bên cạnh giếng, đó là một thiếu phụ. Nhưng dường như thiếu phụ bên cạnh giếng nước chỉ để chúng ta hiểu rằng: cuộc đời của thiếu phụ gắn liền với giếng nước này, chị kéo dài cuộc sống là nhờ ở giếng vì ngày nào chị cũng phải đến giếng này để lấy nước. Chị với giếng như trở thành một, lòng giếng và tâm hồn của chị giống nhau. Nước giếng xoa dịu cơn khát nhưng chỉ xoa dịu trong chốc lát. Chị vẫn phải ngày ngày đến với giếng để cơn khát được xoa dịu và cuộc sống được kéo dài dù biết rằng nó chỉ có thể kéo dài trong chốc lát. Con người đói khát những nhu cầu vật chất mà dường như chẳng bao giờ thấy đủ. Hơn thế nữa, con người còn cảm thấy trong chính mình một cái đói khát khác, đó là đói khát hạnh phúc tinh thần. Người thiếu phụ kia, dù đã năm sáu đời chồng mà vẫn chưa hiểu hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của hôn nhân là gì. Đói khát những nhu cầu vật chất, đói khát hạnh phúc tinh thần dường như chỉ có thể xoa dịu trong chốc lát mà thôi, vì con người mang trong mình cái đói khát khác thẳm sâu hơn, đó là đói khát tâm linh. Bên cạnh giếng nước của đời mình, người có thời gian để tâm suy nghĩ nhận ra rằng: chẳng gì có thể lấp đầy giếng nước của lòng mình. Chính vì thế, khuôn mặt hiền từ của Chúa Giêsu xuất hiện ngay bên giếng nước như một lời giải đáp hết sức diệu kỳ. Chỉ có niềm tin vào Ngài và yêu mến Ngài mới có thể lấp đầy những khát vọng đang cháy bỏng tận đáy giếng của lòng người. Ngài mới là Nước thật, Nước Hằng Sống, Nước Vĩnh Cửu.

Chúa Giêsu ngồi bên cạnh giếng nước tức là bên cạnh tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ dễ nhận ra sự thật này: chúng ta sẽ chẳng bao giờ no thỏa nếu chỉ cậy vào nguồn tài nguyên có trong giếng nước của đời mình, trong thân phận kiếp người của mình. Nhưng chỉ bao giờ chúng ta đặt niềm tin vào Ngài, mến Yêu Ngài thì lúc ấy chúng ta sẽ thấy ngay tại lòng chúng ta, Nước Trường Sinh bỗng vọt lên và đem lại cho ta hạnh phúc muôn đời. Đó mới là hạnh phúc thật.

LỚN LÊN TRONG DÒNG NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
LM Trương Đình Hiền

Kính thưa ông bà anh chị em, cộng đoàn chúng ta đang tiến vào trung tâm điểm của Mùa Chay và các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày chuẩn bị gấp rút để tiến về Giếng Rửa Tội, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng quan trọng nhất của cuộc đời sẽ được thực hiện trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật III Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm "Nước Hằng Sống" đang gọi mời dân Chúa khắp nơi hãy biến đức tin thành một cuộc "hội ngộ" với chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, biến việc sống đạo của mỗi người thành cuộc "gặp gỡ Đức Kitô" là "Đường, Chân lý và Sự sống" đích thật. Thánh lễ hôm nay cũng là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban chính sự sống thần linh cho ta.

Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng dáng cử hành Thánh lễ.

Giảng Lời Chúa :

Sống trên đời ai mà đã không một lần vật lộn với những cơn khát : khát nước, khát tình, khát tiền, khát thành công, khát hạnh phúc, khát bình an, khát yên lặng, khát cảm thông, khát gần gũi, khát sống, khát yêu, khát thù khát hận...Chính vì thế, nhà thơ Đình bảng đã nói lên nổi khát đó qua những câu thơ :

Hồn tôi một cánh đồng không
Lạy trời mưa xuống thành sông, thành ngòi...
Lạy trời mưa suốt đêm nay
Hồn tôi là những luống cày khô khan...

(Lời buồn thánh.Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)

Hay :
Tôi khô khát tựa trẻ thơ đòi sửa
Chiều đăm đăm trông khói núi lên trời
Nên van Ngài làm mưa móc tuôn rơi
Và phủ sóng lên đời tôi nhật thực...

(Xin trời mưa xuống. Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta về những cơn khát. Đặc biệt, qua biến cố "cơn khát nước điên cuồng" của Ít-ra-en trong hoang mạc, và cuộc đàm thoại về Nước Hằng sống giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Lời Chúa đã đưa chúng ta và các anh chị dự tòng đi vào các chiều kích sâu xa của cuộc hành trình đức tin mà bí tích Rửa tội chính là cửa ngỏ đầu tiên. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi lòng mở trí chúng ta.

1. Cuộc đời và những cơn khát :

Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, "nước" được nhiều lần nhắc đến : Ngay từ buổi khai thiên lập địa, nước đã có mặt trong công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Nước chảy nơi vườn Eden để biến nơi đây thành địa đàng trần gian. Nước dâng cao thành Hồng thủy để thanh tẩy địa cầu. Nước Biển Đỏ và sông Gio-đan dựng đứng như tường thành để dân Ít-ra-en đi bộ tiến vào Hứa đại. Nước làm cho muôn vật sinh sôi nẩy nở. Và người công chính được ví như cây dừa mọc bên bờ suối nước, trổ sinh hoa trái tốt lành. Trong khi đó, sứ ngôn Ê-dê-ki-en đã loan báo, vào thời Cứu Thế, nước sẽ chảy ra từ bên phải đền thờ để chữa lành và cứu sống muôn người...

Tuy nhiên, dụng ý của trích đoạn sách Xuất Hành được công bố nơi bài đọc 1 hôm nay, khi nhắc đến biến cố "khát nước" của dân Ít-ra-en trong hoang địa là muốn nhắc nhở chúng ta về những "cơn khát của thời đại hôm nay" và thái độ ứng xử của đức tin trước những cơn khát nầy.

Thật vậy, ngày hôm nay nhân loại cũng đang bị dày vò bởi nhiều cơn khát cháy bỏng : khát tiền, khát tình, khát hưởng thụ, khát tự do, khát cơm no áo ấm, khát danh vọng chức quyền, khát thành công, khát quyền lực, cũng không loại trừ những cơn khát hận thù, khát đam mê và dục vọng... Và để thỏa mãn những cơn khát đó, đã có không biết bao nhiêu những "mời chào, những giải pháp, những đề nghị". Biết bao nhiêu người bỏ mạng trên Biển Đông khi khao khát đi tìm một "chân trời đất hứa tự do"; cũng không ít người chôn thây nơi rừng thiêng núi thẳm vì khao khát tìm vàng hay tìm trầm. Các phương tiện truyền thông hôm nay cũng đã báo động khi có không ít cô gái Việt nam vì khát khao một thiên đàng hạnh phúc nên chấp nhận xa quê lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc, để cuối cùng ôm phận bạc lỡ làng...Ngày xưa, dân Ít-ra-en khi phải đối diện với cơn khát nước điên cuồng nơi hoang mạc, đã liều quay lưng chống đối Mô-sê, nghi ngờ sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa, quên hết bao nhiêu ơn lành và kỳ công Chúa đã thực hiện trong biến cố Vượt Qua khai mạc cuộc Xuất Hành. Họ quên cả "chiếc gậy của Mô-sê" đã từng dương ra trên biển Đỏ để họ tiến bước ráo chân giữa hai bờ tường nước dựng. Quên cả manna, quên luôn chim cút, quên cột mây che mát, cột lửa dẫn đường, quên hết Thập điều trên núi Sinai...Ngày nay, trước những cơn khát của cuộc đời, chúng ta cũng đã bao lần dẹp Thiên Chúa sang một bên, hay chí ít, cũng hồ nghi về sự hiện hữu của Ngài, quên mình là Kitô hữu, quên dòng nước rửa tội, quên Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, quên các giới răn và các thực hành luân lý Kitô giáo, quên hết những lời dạy của tin mừng...

2.Khi "chiếc gậyThánh Thần" can thiệp :

Nhưng Thiên Chúa lại chứng tỏ quyền năng bằng lòng tha thứ; và Ngài lại một lần nữa ra tay. Chiếc gậy của Mô-sê có dịp được dương ra để đập vào tảng đá cho mạch nước tuôn trào. Trên "từng cây số của chiều dài lịch sử nhân loại", Thiên Chúa nào chịu thua sự cứng lòng và yếu đuối của loài người ! Kể từ những giọt máu và nước từ trái tim của Con một tuôn ra trên đồi Sọ, chiếc gậy Thánh thần đã dương ra trên khắp địa cầu để đập vào muôn vạn trái tim chai cứng, khô khan làm vọt lên dòng nước của ơn cứu độ, của tái tạo, của phục sinh. Ngay trong hoang mạc của tối tăm và sự chết trên đỉnh đồi Can-vê chiều thứ Sáu, dòng nước đó đó đã chạm đén trái tim của người trộm bên hữu để trong anh bừng lên niềm hy vọng đi vào hạnh phúc vĩnh hằng. Người phụ nữ Samari trong Tin mừng hôm nay đang khát tình với năm người đàn ông không chính thức, đang khao khát một niềm tin đúng nghĩa để thờ phượng Thiên Chúa, một khi được gặp gỡ Đấng là Đường, là Sự thật và Sự sống đã hân hoan trở nên một con người mới. Rồi tiếp nối những Maria Bêtania ngồi bên chân Chúa, Giakê cố nhìn Chúa trên cành cây sung hay Lê-vi nghe tiếng Chúa ngay nơi bàn thu thuế, người thiếu phụ ngoại tình đứng nhìn Chúa im lặng vẽ hình trên cát...tất cả đã đứng lên và làm lại cuộc đời trong niềm vui của một cuộc phục sinh, của một đời sống mới... Cứ thế, suốt hai ngàn năm nay, hàng hàng lớp lớp con người đã được chiếc gậy Thánh Thần chạm đến để tuôn đổ hồng ân, để nhận được dòng nước hằng sống tái sinh qua bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng lớn lên nhờThánh Thể. Đúng như lời Đức Kitô đã nới với người thiếu phụ Samari trong Tin mừng hôm nay : "và nước tôi cho sẽ sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời".

3. Tắm gội trong dòng nước hằng sống

Như vậy điều quan trọng còn lại hôm nay chính là hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp. Chính người thiếu phụ Samari hôm nay đã chịu mở lòng ra đối thoại với Chúa, đã chấp nhận để Chúa truy vấn và đã để Lời Chúa xuyên thấu cõi lòng. Và từ đó lại một mạch nước hằng sống đã tuôn trào nơi trái tim tưởng đâu đã cằn khô nơi chị, biến chị trở thành chứng nhân, thành tông đồ để rao giảng đơn sơ chỉ một tin Mừng : "Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?" . Quả thật, đức tin luôn là một cuộc khao khát vươn tới, là một sự khó nghèo để được lấp đầy, một niềm trông cậy để được đáp trả. Bởi vì Đức Kitô không bao giờ khước từ những ai đến cùng Ngài; lại càng không phải là kẻ dồn ta vào bước đường cùng để xô ta xuống vực thẳm. Hãy tự nhiên và bộc trực như người thiếu phụ Samari hôm nay, hay cứ huyên náo lăng xăng tiếp Chúa như cô Matta Bêtania, yên lặng nghe Chúa như cô Maria, tò mò trèo lên cây để được thấy Chúa như Giakê, đứng ngay lên bỏ tất cả theo Chúa như Matthêô, cả khi bất đắc dĩ vác đỡ thập giá như Simêon...Điều quan trọng là hãy đến, hãy tiếp cận, hãy gặp gỡ. Chúa nào có xa đâu.

Như vậy Mùa Chay phải chăng là Mùa để chúng ta mở rộng cõi lòng tập luyện sống niềm tin tích cực, sống cuộc gặp gỡ Đức Kitô, sống đối diện với cái tôi đích thực của mình để tìm gặp một sức sống mới, một nguồn nước mới. Chúng ta hãy bước ra khỏi cái ảo tưởng cho rằng : mình sống đạo như thế đủ rồi, đức tin như thế là tạm ổn. Hãy tỉnh táo. Coi chừng chúng ta đang trong "cơn thiếu nước trầm trọng", đang trong thế "quay lưng lại với Thiên Chúa". Hãy mạnh dạn quay lại ngõ lời với Đức Kitô như người thiéu phụ Samari : "Xin ban cho con thứ nước ấy", và hãy để chiếc gậy Thánh Thần đập vào cõi lòng, vào tim óc và cuộc sống. Đó là chiếc gậy của tòa Giải tội, của Thánh Lễ, của việc cầu nguyện, của Tin mừng, của ăn chay và làm phúc, của tha thứ hòa giải với anh chị em xung quanh, của việc thực hành liêm khiết, thủy chung trong đời sống gia đình, trong sáng, trách nhiệm nơi công sở...Hãy để dòng nước của nhiệm tích Rửa tội vọt lên trong cuộc đời, hãy để dòng nước của Thánh Linh tuôn trào trong tim óc. Chắc chắn, chúng ta sẽ lớn dần lên trong tin yêu và niềm vui hạnh phúc thánh thiêng như cảm nghiệm của nhà thơ Đình bảng :

Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội
Lớn dần lên trong hương sắc của Người
Này lại ngày hoa trái cứ sinh sôi
Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt
..
(Giữa bao la đất trời. Lê Đình bảng, Hành Hương, thơ. 2006)

Dòng nước đó chính là Đức Kitô đang có ở đây. Hãy hướng về Ngài. Hãy gặp gỡ Ngài.

AI LÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ SAMARIA, AI LÀ CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI TÔI?
Ga 4, 5 - 42
Lm. Peter Hoàng Xuân Nghiêm

1. Bờ giếng Gacóp là môi-trường sống riêng biệt của mỗi cá nhân.
Môi trường nầy có thể là gia đình, là một Phong trào tôi đang sinh hoạt, một Hội đoàn Công giáo tiến hành tôi đang tham dự, là môi trường giáo xứ, môi trường công tư sở mà tôi đang là một thành viên trực thuộc. Bờ giếng Giacóp như một quán nước bên đường, một Rest Area bên xa lộ cuộc đời cho người lữ khách đường xa dừng lại, nghỉ ngơi, bồi đưỡng để lên đường đi tiếp đích điểm cuối cùng của cuộc hành trình.

Tôi là một người đàn bà Samaria đang làm chủ hay đang tiếp xúc, tiếp cận với môi trường riêng tư hay công cộng mỗi ngày hay mỗi tuần khi có dịp.

Chúa Giêsu có thể hiện thân là một trong những thành viên của gia đình tôi, một người bạn đồng sở làm với tôi, một hội viên, một đoàn viên, một thành viên cùng giáo xứ với tôi.

2. Người đàn bà Samaria đã cho Chúa Giêsu nước uống khi Ngài xin.

Muốn tặng nước cho Chúa Giêsu uống, người đàn bà Samaria phải có nước hay phải có gàu để múc nước từ dưới giếng Giacóp lên mà biếu tặng Chúa Giêsu. Muốn cho, muốn tặng thì phải có cái để tặng, để cho. Không ai cho cái mình không có bao giờ cả. Cái nguyên lý căn bản nầy ai cũng biết hết.

Tôi là một người Samaria mới trong vai trò làm vợ tại môi trường gia đình. Chồng tôi là một Giêsu đang tiến lại gần, tiếp cận với tôi và thành khẩn xin tôi thứ nước cảm thông, tha thứ để giúp anh bắt đầu làm tốt lại từ đầu vai trò của một người chồng, người cha mà cả hơn một năm nay đã bỏ bê không ngó ngàng tới. Anh rất ân hận, lúng túng. Anh muốn sửa lại mọi sự trong ngoài. Thứ nước cảm thông, tha thứ từ chị bên bờ giếng Giacóp là môi trường gia đình. Chị có sẵn sàng như người đàn bà Samaria làm cho Chúa Giêsu không?

Tôi là một người chồng trong một hoàn cảnh tương tự như trên đây, tôi có sẳn sàng ban tặng người số một của tôi thứ nước hòa giải để nối lại tình xưa nghĩa cũ đã một thời gián đoạn vì hiểu lầm, để vợ chồng, con cái cùng đoàn tụ trong một môi trường gia đình đấm ấm, hạnh phúc như xưa, được không?

Tôi là một đứa con trong một gia đình. Bố mẹ tôi đã luống tuổi, lại chịu ảnh hưởng của nền văn hoá lâu đời của Việt-Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, chịu ảnh hưởng một nên văn hóa và giáo dục sâu đậm của Hoa-Kỳ. Giữa tôi và bố có sự xung khắc, vì bố tôi chỉ nói tiếng Việt, còn tôi chỉ biết nói tiếng Anh. Hai bố con không gặp nhau trong quan niệm sống và không hoà hợp nhau trong đời sống gia đình. Tôi nghe cha sở của tôi giải thích rằng giưã bố mẹ và con cái có thể không hiểu và không thông cảm nhau vì khả năng ngôn ngữ. Cho nên bố mẹ cần cập nhật-hoá tiếng Anh và con cái cần trau dối thêm tiếng Việt để dễ dàng thông cảm với nhau, nhưng về tình yêu thương bố mẹ Việt-Nam dành cho con cái thì không cần "ấp đết". Tôi đang ngồi bên giếng Giacóp của gia đình trong Mùa Chay như một cơ-hội. Chiếc gầu cảm thông tôi đang cầm trong tay. Tôi chỉ cần thả xuống... kéo lên nuớc "I'm sorry" và đổ vào thùng yêu thương của bố tôi có sẵn thì tôi sẽ trở thành một người Samaria thứ thiệt, bắt đầu từ Mùa Chay thánh năm nay

Tôi là một thành viên có hạng trong Phong Trào. Tôi đang ở trong Ban điều hành cuả Phong Trào. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những người không ủng hộ tôi trong những kế hoạch tôi đề nghị. Tôi muốn loại bỏ và khai trừ hết những người chống đối. Cha Sở của tôi và cũng là linh hướng của Phong Trào nói với tôi rằng ngày xưa tại Nam Việt-Nam, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có nói mọt câu chua cay nhưng để đời: "Trong hoàn cảnh của xã hội Miền Nam hôm nay, nếu sa thải hết những người hối lộ thì lấy ai làm việc công". Cha sở khuyên tôi hãy chấp nhận hợp nhất trong khác biệt và ngài thêm: Biết đâu nhờ những chống đối ấy mà người trong cuộc sẽ cẩn trọng hơn trong các phương án. Âu đó cũng là một điều hay. Bây giờ Mùa Chay là một cơ-hội. Hội Họp của Phong Trào như quán nước Giacóp bên đường. Giếng đây, gàu đây tôi có vui lòng cúi xuống... kéo lên để biến tôi thành một người Samaria mới ở dây và bây giờ không?

Tôi là một thành viên năng nổ của cộng đồng xứ đạo của tôi. Tôi đang giữ một vai trò tương đối có ảnh hưởng. Một ngày kia, có thể là Cha Sở, có thể là một thành viên khác vì thiếu tế nhị cũng có hay vô tình cũng có, đã nói một lời hay tỏ một thái độ. .. đụng chạm đến tôi. Thế là tôi buồn, tôi giận, tôi bỏ xứ và bỏ luôn cả việc đi lễ tại nhà thờ giáo xứ trong một thời gian dài. Mùa Chay là một cơ hội. Giếng Giacóp là quán nước bên đường mời tôi là một lữ khách dừng lại. Tự nhiên tôi suy nghĩ. Tôi giận người khác, tôi giận luôn cả Chúa được sao? Thiệt là vô lý. Tôi chỉ cần tra tay vào chiếc gầu cảm thông và thả xuống giếng rồi múc lên nước tha thứ là tôi có thể trở thành một người Samaria mới bên bờ giếng Giacóp của giáo xứ.

Người phụ nữ Samaria đã múc nước cho Chúa Giêsu uống khi Người ngồi bên bờ giếng Giacóp ngày xưa. Chúa Giêsu đang ngồi đấy bên bờ giếng Giacóp của cuộc đời. Ngài đang hiện thân trong những người khác đang có nhiều liên hệ đến cuộc đời bạn và tôi. .. và Ngài đang nói với mỗi chúng ta: "Cho tôi uống nước với". Liệu chúng ta có sẵn sàng không?

XIN CHO ÐƯỢC UỐNG NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Lm Trần Bình Trọng

Ðể hiểu rõ cuộc đấu lý của người phụ nữ xứ Samaria với Chúa Giêsu, cũng như đường lối Chúa dùng để đưa dẫn chị đến việc trao ban cho chị nước hằng sống, ta cần tìm hiểu sơ qua bối cảnh địa dư, lịch sử, chính trị và tôn giáo của dân Do thái thời bấy giờ. Nước Do thái thời Chúa Giêsu được chia thành ba miền giống như ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Từ thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên, miền trung của họ là đất Samaria, bị ngoại bang là người Átxiria chiếm đóng và đô hộ. Luật pháp Do thái cấm người Do thái kết hôn với người khác đạo, cũng như người ngoại bang. Tuy nhiên người Do thái ở Samaria cuối cùng đã chấp nhận dân đô hộ, lập gia đình với thực dân, rồi tiêm nhiễm những phong tục tập quán ngoại bang. Ðiều đó khiến người Do thái ở miền nam là Giuđê phẫn nộ, coi rẻ người Samari, cho họ là dân lai căng, không còn thuần tuý Do thái nữa.

Sau này miền Giuđê cũng bị đô hộ. Tuy nhiên người Do thái ở đây nhất định không chịu đồng hoá với dân ngoại bang. Khi người Do thái xây lại đền thờ Giêrusalem, người Samari ngỏ ý muốn giúp đỡ, nhưng người Do thái từ chối. Rồi một việc khác xẩy ra là một vị đại giáo trưởng Do thái còn âm mưu cho đốt đền thờ của người Samari. Những thái độ và hành động đó làm cho người Samari căm phẫn, khiến cho hai dân tộc, trước kia thuộc cùng dòng giống, càng ngày càng xa cách. Do đó mà người Do thái từ miền bắc là Galilê muốn xuống miền nam, và ngược lại người Do thái ở miền nam muốn lên miền bắc, không thèm đi qua đất Samaria, nhưng lại đi vòng xa hơn để đạt tới đích. Ðể giúp cho dễ hình dung, ta có thể tưởng tượng ra người Bắc Việt muốn vào Nam Việt, hay người Nam Việt ra Bắc Việt, không thèm đi qua Trung Việt, nhưng vòng qua đất Lào để tới đích. Vì thế mà hai dân Do thái và Samari thường không giao thiệp với nhau vì mang mối thù truyền kiếp này. Tuy nhiên người Samari vẫn nhận biết Thiên Chúa của người Do thái và họ tin theo bộ sách Ngũ kinh của người Do thái. Họ cũng trông đợi Ðấng Cứu thế đến như người Do thái.

Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến hành trình của Chúa Giêsu đến thành Xikha thuộc xứ Samaria. Chúa đã không đi vòng để tránh đặt chân lên đất Samaria như những người Do thái khác quen làm, nhưng đi thẳng vào đất Samaria. Và khi dừng chân nghỉ mệt bên bờ giếng Giacóp, Chúa đụng độ người phụ nữ xứ Samaria đi kéo nước. Nước mang hai ý nghĩa và công hiệu quan trọng. Người ta cần nước để rửa sạch. Loài người, loài vật và cả thực vật cần nước uống để sống. Người Do thái trong sa mạc khát nước nên kêu trách Môisê đã đem con đi bỏ chợ như bài trích sách Xuất hành hôm nay kể lại. Môisê xin Chúa can thiệp. Chúa bảo Môisê cầm gậy đập trên tảng đá đê nước chảy ra cho dân uống.

Ðối diện với người phụ nữ có vẻ nghi kị và ác cảm, Chúa đành cố gắng phá tan bức tường vô hình ngăn cách bằng cách đặt mình vào thế yếu để xin chị cho nước uống. Phong tục Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng nhất là hàng giáo sĩ và những người có địa vị như Chúa Giêsu. Vì thế mà người phụ nữ bèn mỉa mai nói Chúa là người Do thái mà lại xin chị là người Samari cho nước uống sao? Ðể trả lời Chúa bảo nếu chị nhận ra ơn Chúa và người nói với chị là ai, chị sẽ xin người cho uống nước hằng sống. Chị liền bắt bẻ, nói Chúa không có gầu mà giếng lại sâu, sao lấy đâu ra nước hằng sống.

Chúa phán bảo chị: Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa (Ga 4:14). Chộp lấy cơ hội, người phụ nữ liền xin cho được nước hằng sống - mặc dù chị chưa hiểu là nước gì - để từ nay không phải đi xa múc nước nữa. Lúc này chị đã nhận ra Chúa Giêsu có gì để ban tặng cho chị. Ðến đây Chúa đánh động một niềm thức tỉnh nơi chị bằng cách đưa ra ánh sáng cái thực tại của đời sống cá nhân chị, khi chị nói chị không có chồng. Chúa bảo chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Lúc này người phụ nữ nhận ra nơi Chúa có cái tri giác luân lý, nên nói: Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ (Ga 4:19).

Toan đổi đề tài, người phụ nữ hỏi Chúa xem người ta phải phụng thờ Thiên Chúa ở đâu? Chúa bảo chị không nên quan tâm đến việc tranh chấp về nơi thờ phượng vì sẽ đến giờ khi người ta không hẳn chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem hay ở Samaria, nhưng là thờ phượng Chúa ở khắp mọi nơi trên khắp mặt địa cầu. Chị cũng hiểu biết khi Ðức Kitô đến, Người sẽ loan báo cho người ta mọi sự. Câu chuyện tiếp diễn đến đây, thì người phụ nữ vội vã trở về kể cho người làng xóm về những gì mà tai và mắt chị đã nghe và thấy và cảm nghiệm được. Người làng tuốn ra gặp Chúa. Cùng với chị, họ đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu là Ðấng cứu thế.

Cuộc đối chất giữa người phụ nữ với Chúa Giêsu cho thấy không những chị ta có vẻ lý sự, mà còn đanh đá là khác - đanh đá dễ sợ. Tuy nhiên xét cho cùng thì chị ta cũng không đến nỗi đáng sợ mấy vì chị biết phục thiện và biết mở lòng. Nếu thực sự đanh đá và cứng lòng, chị ta đã có thể nói với Chúa đừng có tò mò mà xía vô chuyện riêng tư của đời chị. Ðứng trước một người nào đó có cái tri giác luân lý, người ta thường nể nang, không muốn chống đối. Ðối diện với Ðức Giêsu là người mà người phụ nữ nhận ra có tri giác luân lý, chị ta phải nhận cái thực tại về đời sống cá nhân của mình và để cho lòng mềm ra.

Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa đưa chị đến việc dần dà mở tâm hồn chị. Chị ta đã nhận ra ơn cứu độ từ việc coi Chúa Giêsu chỉ là một người Do thái thường, qua việc xưng Chúa là ngài, đến việc nhận ra Chúa là một ngôn sứ và cuối cùng tin Chúa là Ðấng Cứu thế: Ông ấy không phải là Ðấng Kitô sao (Ga 4:29)? Như vậy câu chuyện Phúc Âm cho thấy Chúa đến mang ơn cứu độ không những chỉ riêng cho người Do thái, nhưng còn cho dân ngoại qua việc ban tặng nước hằng sống cho người phụ nữ Samari. Nước hằng sống theo thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma chính là tìn yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta, nhờ Thánh thần của Người (Rm 5:5).

Lạy Chúa, xưa kia một thời tổ tiên chúng con cũng là dân ngoại. Nhờ các nhà truyền giáo, mà tổ tiên con đã được ơn nhận lãnh đức tin. Do đó con cũng được thừa hưởng ơn được uống nước hằng sống. Nếu con đi lầm đường lạc lối về phương diện nào đó trong đời sống, xin cho con được ơn biết thức tỉnh tâm hồn như người phụ nữ Samari, để con được tiếp tục uống nước hằng sống. Amen.

TIẾN TRÌNH MẠC KHẢI VÀO MẦU NHIỆM ĐỨC TIN
Ga 4, 5 - 42
Sr Mai An Linh, OP
Bài Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay là một đọan văn đa nghĩa, người ta đọc ra ở đấy nhiều ý nghĩa khác nhau : Có người tìm thấy ở đấy một ý nghĩa mục vụ và tâm lý giúp cho chúng ta cách phải nói với tội nhân để đưa họ đến chỗ hóan cải. Có người lại thấy đọan Tin Mừng này có ý nghĩa Bí Tích, đó là nước trường sinh ám chỉ nước trong phép Thánh Tẩy, còn bánh hẳn là liên hệ với phép Thánh Thể. Có người lại giải thích theo một ý nghĩa Kitô học, Gioan giới thiệu một đề tài nền tảng : "Đức Giêsu là ai để tin vào Ngài ?".

Điều này phù hợp với mục đích của tòan tác phẩm Tin Mừng thư tư, vì Jn.20,31 Gioan trả lời rất rõ : Các điều đã viết đây là để anh em tin rằng : Đức Giêsu chính là Đức Kitô con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em có sự sống nhờ Danh Ngài. Như thế tác giả muốn chúng ta hiểu rằng : Đức Giêsu chính là Đức Kitô Con Thiên Chúa và nhờ tin như vậy thì được sống. Hay nói đúng hơn đọan văn nhằm trình bầy hành trình đức tin của người ly khai Do Thái Giáo.

1/ Hành trình đức tin của người phụ nữ Samaria:

Cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và thiếu phụ đã dân đưa chị qua ba chặng :Trước hết chị đã được dẫn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác : Chúa Giêsu không như những người Do Thái khác, khinh thị người Samari nhất là phụ nữ Samari, trái lại Ngài còn kính trọng chị, hạ mình xuống xin nước uống (c.9). Nhưng ngay sau đó Chúa Giêsu đã xoay tình thế " Nếu chị...người ấy ban cho chị nước hằng sống"(c.10) và chị vội vàng xin nước Ngài (x.c.15).

Nước là nguồn mạch và tiềm năng của sự sống, nước để thanh tẩy, nước ban sự sống đời đời. Chúa Thánh Thần là nguồn nước sự sống. Đức Giêsu đã làm cho chị nhận ra mình không phải là người cho nước mà trái lại là người xin nước.Chặng hai : Chúa Giêsu làm cho chị nhận ra mình được Ngài biết rõ và từ đó nhận ra Đức Giêsu là một ngôn sứ. Người thiếu phụ ngạc nhiên " ông ấy nói với tôi mọi sự tôi đã làm" (c.29-31). Chị ngạc nhiên vì thấy Đức Giêsu đã biết rõ mình (x.c.18). Trong khi mạc khải cho thiếu phụ Samaria biết rõ đời tư của chị, Đức Giêsu đã tự mạc khải chính mình. Cách làm này cũng tương tự cách làm đối với Nathanael (Jn.1,47-49).

Sau cùng Đức Giêsu tăng cường niềm chờ mong Đức Kitô và mạc khải mình chính là Đức Kitô. Thật vậy, người phụ nữ nhận thấy người đối thọai vừa cởi mở vừa sáng suốt, nên người thiếu phụ liền nêu ra vấn đề lâu đời chia rẽ người Do Thái với người Samaria. Phải thờ phượng Thiên Chúa ở núi này hay tại đền thờ Giêrusalem ? Thắc mắc này cho thấy thiếu phụ đang khao khát ngóng đợi Đấng Messia và Ngài tỏ cho chị thấy Ngài chính là điều mà chị đang chờ mong "Ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát..."(c.14) và người chị mong đợi"Đấng ấy chính là tôi"(c.26). Sự phân rẽ giữa nơi thờ phượng thì Chúa Giêsu xóa bỏ, điều mà họ mong mỏi là " lúc này không còn là ở Giêrusalem hay Garazim mà là trong tinh thần và chân lý"(c.23-24).

2/Chúa Giêsu làm cách nào để người phụ nữ có những chuyển biến ?

Trước hết Chúa Giêsu đã làm cho bà thay đổi tương quan với Ngài : Trước đây là một sự kỳ thị, người Do Thái liệt kê người Samaria là người ly khai, còn người DoThái là người trung thành với luật, tự đặt mình lên trên họ. Còn Chúa Giêsu lại tự hạ ngỏ lời xin bà nước, việc tự hạ ấy có thể làm tổn thương danh dự của Chúa Giêsu và cả dân tộc mình, nên chính các môn đệ cũng ngạc nhiên (x.c.27). Nhưng sau khi xin nước, người thiếu phụ cảm thấy mình được tôn trọng và thương mến. Cho nên sự hạ mình của Chúa Giêsu chính là cốt lõi để biến đổi tương quan giữa Chúa Giêsu và phụ nữ. Rồi Ngài gây ngạc nhiên cho chị, Ngài chuyển từ nước tự nhiên sang nước tái sinh và đã giúp chị chuyển biến từ người cho sang người xin và tư người xin sang người cho.

Người thiếu phụ đang khát tình thương, nên chi mới sống với nhiều người đàn ông như thế, khát tình thương mà Chúa ban tình thương thì điều đó quan trọng như thế nào đối với chị ! chị đã nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là Ngôn Sứ (x.c.19) mà còn yêu thương chị nữa, dù đời tư chị qúa khứ cũng như hiện tại chả ra gì, nhưng Chúa Giêsu vẫn tôn trọng nên chị nhận ra mình được yêu và biến đổi là lẽ đương nhiên.

3/ Loan báo :

Khi nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia(x.c.26) thì chị đã vội vàng loan báo cho dân chúng "Mau mau hãy đến mà xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Đấng Kitô"(c.29). Và những người Samaria đã qua trung gian người thiếu phụ mà có được niềm tin (x.c.39), nhưng sau đó họ trực tiếp gặp gỡ Ngài. Các môn đệ đầu tiên cũng vậy, khi được Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thì đã đi loan báo, giới thiệu cho những người thân quen. Chẳng hạn Andrê nói với Phêrô : chúng tôi đã gặp đấng Messia và giới thiệu em mình cho Chúa Giêsu, rồi Philipphê gặp Nathanael cũng nói : Đấng mà sách luât Moisen và các ngôn sứ nói tới chúng ta đã gặp(x.Jn.1,35-46). Và tiến trình niềm tin của các môn đệ tiên khởi cũng tương tự như thế khi Phêrô được anh loan báo thì ông được dẫn đến để trực tiếp gặp Chúa Giêsu và Nathael được bạn loan báo thì cũng diện kiến Chúa Giêsu và đối thọai với Ngài rồi chính ông thốt lên " chính thầy là Con Thiên Chúa, là vua Israel"(Jn.1,49).

4/ Sứ điệp Tin Mừng :

Có thể sống điều mình tin mà không loan báo không ?Chúng ta có thể thực sự tin vào Chúa Giêsu mà chỉ qua trung gian không ? Phải có sự gặp gỡ Chúa Giêsu thực sự qua việc cầu nguyện.Muốn loan báo, muốn giúp người khác tin vào Đức Giêsu chúng ta phải làm thế nào ?Thiếu phụ Samaria đi kín nước, đâu ngờ mình gặp được Đấng Thiên Sai, còn bạn, khi lao động, đi buôn bán, đi làm, đi học...bạn có thể tìm gặp Chúa được không ? Chúa Kitô đã vượt ra ngòai hàng rào nghi kỵ, thành kiến để gặp gỡ và chinh phục người thiếu phục Samaria bằng tình yêu, để chị trở thành con cái Chúa và làm chứng tá Tin Mừng. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, xích lại gần nhau để đối thọai và lắng nghe nhau trong tinh thần cởi mở chân thành. Nhờ đó, Mùa Chay thánh này sẽ sinh hoa trái cho chúng con.

BƯỚC ĐƯỜNG CỦA NIỀM TIN
Ga 4, 5 - 42
Lm Trần Thanh Sơn
Lời Chúa trong Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng: để có thể hưởng vinh quang phục sinh của Đức Giêsu, mỗi người chúng ta cần bước theo Ngài trên "Con đường thập giá", con đường của sự từ bỏ kèm theo một lòng tin thật sắt đá. Lời Chúa hôm nay lại cho chúng ta thấy rằng, đức tin đó có thể được Thiên Chúa khơi dậy bằng một cuộc gặp gỡ rất bình thường trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.

1. TỪ MỘT CUỘC GẶP GỠ BÊN ĐƯỜNG ...:
Thánh Gioan kể lại, khi ấy, Đức Giêsu vừa rời khỏi miền Giuđê để trở lại miền Galilê. Trên đường trở về, Ngài phải băng qua miền Samaria, một miền đất của dân ngoại theo cái nhìn của những người Do thái. Bước đi dưới bầu trời nắng cháy của miền đất Palestin, cho đến trưa, thì Đức Giêsu đã mỏi mệt, nên Ngài ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacóp, còn các môn đệ thì đi vào thành để mua thức ăn. Vừa lúc đó, có một người phụ nữ Samaria đến giếng để xách nước. Vừa mệt mỏi vì đường xa, vừa khát nước bởi cái nắng như nung, như đốt của miền sa mạc, Đức Giêsu liền ngỏ lời với bà ta: "Xin bà cho Tôi uống nước". Một lữ khách qua đường dừng lại nơi bờ giếng để xin nước uống. Một việc có vẻ rất bình thường, nhưng thực ra lại không bình thường chút nào, nó đã làm cho người đàn bà xứ Samaria phải ngạc nhiên: "Sao thế! Ông là người Do thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?". Bà ta ngạc nhiên, bởi vì nhiều lý do trong lịch sử, người Do thái đã coi những người Samaria như là những người dân ngoại, những người ô uế theo luật pháp, thậm chí, người Do thái có khi còn coi những người Samaria như là kẻ thù không đội trời chung. Vậy mà giờ đây, Đức Giêsu, một người đàn ông Do thái lại bắt chuyện với bà, một người phụ nữ xứ Samaria.

Và rồi Đức Giêsu lại tiếp tục làm cho bà ta ngạc nhiên hơn nữa khi nói: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với bà: xin cho tôi uống nước, thì chắc bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước hằng sống". Quả là bất ngờ, một người lữ khách qua đường không có gì để múc nước mà lại nói rằng có thể ban cho bà ta "nước hằng sống". Và rồi cứ thế, khởi từ nguồn nước giếng trước mắt, Đức Giêsu dần dần dẫn đưa bà ta đến lòng khao khát một nguồn nước Hằng sống phát sinh từ nơi Ngài, mà ai uống nước đó sẽ không còn khát nữa.

2. ... ĐẾN NIỀM TIN VÀO ĐỨC GIÊSU :
Trong bài đọc một kể lại cuộc hành trình của người Do thái trong hoang địa từ Ai cập về Đất Hứa. Dọc đường họ đã kêu trách, phàn nàn với Môisen: "Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai Cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy?". Thậm chí, họ còn muốn ném đá cả Môisen, vì nghĩ rằng: vì Môisen mà họ sắp phải chết khát trong sa mạc. Trước lời kêu xin của họ, Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá vọt ra cho họ uống. Dân Do thái chỉ vì khát nước mà quên mất biết bao ân huệ của Thiên Chúa, và công lao của Môisen đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Họ chỉ nhìn thấy cái trước mắt mà quên mất điều quan trọng hơn là họ đã được tự do, được Thiên Chúa chọn làm dân riêng của Ngài.

Tương tự như vậy, người đàn bà trong bài Tin mừng hôm nay, đã chạy theo dục vọng xác thịt để mong được thoả mãn, nhưng cho dù đã có 5 đời chồng, và hiện đang chung sống với một người đàn ông khác nữa, lòng chị vẫn trống vắng. Một sự trống vắng về mặt tâm linh mà không một người đàn ông nào có thể lấp đầy. Và không chỉ người đàn bà này, nếu nhìn lại, mỗi người chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng: Từ trong sâu thẳm của tâm hồn, mỗi người chúng ta vẫn luôn cảm thấy thiếu một cái gì đó, một nỗi thiếu thốn mà không có cái gì có thể lấp đầy và làm cho no thoả.

Như thế, lời của Đức Giêsu nói với người đàn bà: "Ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa", đúng là một tin vui không chỉ của chị, nhưng là tin vui cho tất cả chúng ta. Chỉ có Đức Giêsu mới có thể làm thoả mãn cơn khát trong mỗi người chúng ta. Đức Giêsu chính là Nguồn nước hằng sống, nguồn phát sinh tình yêu cứu độ. Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là Ngài đã hy sinh cho chúng ta ngay cả khi chúng ta đang phản nghịch, đang quay lưng và chống lại Ngài. Từ nơi Đức Giêsu, mỗi người chúng ta nhận được hồng ân Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta để mỗi người chúng ta được trở nên công chính, được vinh dự gọi Thiên Chúa là Cha. Từ đây, mối liên hệ giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào nơi chốn, hay các nghi lễ bên ngoài, nhưng là một mối quan hệ dựa trên tình yêu, "trong tinh thần và chân lý".

Tuy nhiên, một tình yêu thật không thể dấu kín trong lòng, nhưng chắc chắn sẽ bộc lộ ra bên ngoài nơi ánh mắt, và cả cuộc sống của người đang yêu. Một lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành, chắc chắn sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Chúa nhiều hơn, sốt sắng hơn. Lòng mến đó sẽ mở lòng chúng ta với anh chị em mình. Nó sẽ giúp chúng ta dễ dàng tha thứ và chia sẻ cho anh chị em mình hơn. Có thể việc chúng ta tham dự thánh lễ, ăn chay, bố thí, đọc kinh không hẳn là dấu chỉ chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể nói rằng lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà bên ngoài chúng ta lại khô khan, nguội lạnh, đến nhà thờ thì ngồi xa xa, vừa dâng lễ vừa hút thuốc rồi biện minh rằng: Thiên Chúa ở khắp nơi; hoặc là tôi yêu mến Chúa trong lòng tôi.

3. VÀ LỜI LOAN BÁO NIỀM TIN :
Người đàn bà Samaria hôm nay, sau khi đã được gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, bà đã không thể giữ lại riêng ở trong lòng niềm vui của cuộc gặp gỡ. Niềm vui đó đã thúc đẩy bước chân bà chạy trở về để loan báo cho mọi người về phát hiện của bà về con người của Đức Kitô, bà đã vội vã báo cho mọi người biết về niềm tin mà bà vừa được lãnh nhận: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Đấng Kitô?". Thế rồi "dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài". Họ đến để được trực tiếp nhìn ngắm, lắng nghe Ngài nói và cuối cùng họ đã tin vào Ngài. Họ nói với người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi đã tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết thật Người là Đấng Cứu Thế". Và họ đã "xin Người ở lại với họ".

Thế đó, niềm tin đích thực và có giá trị là niềm tin có tính cá nhân riêng tư giữa chúng ta với Thiên Chúa. Niềm tin đó có thể khởi đầu nhờ một sự giúp đỡ của tha nhân, nhưng cuối cùng chúng ta phải làm sao để có thể trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa như người đàn bà và cả dân thành Samaria. Hơn nữa, cũng giống như tình yêu, một niềm tin sâu xa chắc chắn sẽ thúc đẩy bước chân tông đồ của mỗi người chúng ta. Hay nói một cách khác, lòng nhiệt tâm trong công tác tông đồ, và thao thức truyền giáo cũng là một dấu chỉ cho thấy mức độ của lòng tin nơi mỗi người chúng ta.

Ngày hôm nay, mỗi khi cử hành Thánh lễ, và nhất là khi hiệp lễ là mỗi lần chúng ta lại được lãnh nhận lấy Nguồn Sự Sống Thần Linh. Theo gương của người phụ nữa Samaria trong bài Tin mừng, chớ gì từng người chúng ta cũng mau mắn dùng chính cuộc sống yêu thương của mình để loan báo Tin mừng cho muôn dân. Amen.

GẶP GỠ, BIẾN ĐỔI VÀ RA ĐI...
Ga 4, 5 - 42
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Trước khi bị thất thủ vào năm 721 BC, Samari là miền đất thuộc về dân Giavê Thiên Chúa- nơi ở dưới chân núi Gơridim, còn lưu lại dấu tích một cái giếng rất cổ xưa được xem là giếng của tổ phụ Giacóp. Sau khi bị năm dân ngoại xâm lăng, áp đặt niềm tin tôn giáo cũng như việc đối xử khắc khe của những người Dothái hồi hương, dẫn đến việc ly giáo Samari. Từ đó giữa Dothái và Samari trở nên thù địch không đội trời chung. Trình thuật Tin mừng hôm nay là một áng văn tuyệt tác ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ tại chính miền đất đặc biệt này.

Mệt mỏi vì đường xa, Chúa Giêsu đến nghỉ bên bờ giếng tổ phụ Giacóp đúng vào lúc một phụ nữ đến đây múc nước. Cứ theo sự thù nghịch, trong trường hợp này, một trong hai người sẽ tự động rút lui hoặc chọn giải pháp im lặng. Nếu chọn giải pháp đầu thì người rút lui trước chính là Chúa Giêsu bởi Người là dân Dothái không được phép tiếp xúc với phụ nữ nơi công cộng và giếng nước thuộc quyền sở hữu của người Samari. Chúng ta thấy Chúa Giêsu và cả chị Samari đã không rút lui cũng chẳng im lặng. Chính Chúa Giêsu lên tiếng trước khai mở cho một quá trình huyền nhiệm của ơn gọi.

Chúng ta gặp trong trình thuật này cách sử dụng từ ngữ của thánh sử Gioan mà theo các nhà ngôn ngữ chính là kỹ thuật gây hiểu nhầm (Technique of misunderstanding) khi đối thoại với chị Samari cũng như với các môn đệ (x. 4, 7-9.31-33). Khi Chúa Giêsu đến giếng Giacóp và xin nước uống, chị Samari hiểu nước theo nghĩa đen, còn Chúa Giêsu hiểu theo nghĩa bóng, đó là nước hằng sống.

Thông qua nguồn nước này, Chúa Giêsu muốn giới thiệu với chị về đức khôn ngoan- điều mà trước đây ngôn sứ Isaia đã loan báo và nay chính Người đang rao giảng (x. Is 55,1). Vâng, chính Chúa Giêsu là Lời Khôn ngoan của Thiên Chúa và hết những ai khao khát Lời chân lý ấy sẽ ở mãi trong tình yêu của Người. Ngày hôm nay, chính Chúa Giêsu vượt qua mọi cấm cách, mọi thù nghịch để đến nói chuyện với chị- vốn thuộc chủng tộc ngoại lai lạc đạo, hầu mang đến cho chị nguồn hạnh phúc đích thực.

Được gặp gỡ Chúa, người phụ nữ Samari bắt đầu một hành trình đến với niềm tin. Chị dần dần nhận ra, dù chưa trọn vẹn, Chúa Giêsu chính là Đấng Kytô. Sở dĩ chị nhận ra điều này bởi người đang nói với chị "đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm". Đề cập đến đời sống hôn nhân của chị, Chúa Giêsu không chỉ nói đến tình trạng sống phi pháp của chị mà còn gián tiếp nói đến tình trạng sống của dân Samari. Thật thế, năm ông chồng tượng trưng cho năm vị thần (thần Xúccốt Bơnốt, thần Nécgan, thần Asima, thần Nípkhát và Táctắc, thần Atrammeléc và Anammeléc) (2V 17, 30.31) của năm sắc dân ngoại xâm du nhập vào Samari khi miền đất này thất thủ. Ở đây chúng ta thấy, nếu Giavê Thiên Chúa được xem là chồng chính thức của dân Israel thì năm vị thần mà người Samari tôn thờ là những ông chồng không chính thức. Vị thần thứ sáu người Samari đang tôn thờ tuy là Giavê Thiên Chúa đấy nhưng không phải là Giavê theo niềm tin truyền thống và thuần tuý.

Được gặp gỡ và được Chúa biến đổi, chị Samari giờ đây trở thành nhân chứng và là người giới thiệu Chúa cho những người thân quen trong thôn xóm của mình. Chị vội vã ra đi, thuật lại cho mọi người tất cả những gì Chúa Giêsu nói với chị đồng thời mời gọi mọi người đến gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ và biến đổi. Giờ đây chị hiểu rằng tin vào Đấng Kytô, chị sẽ không còn phải khát cho đời sống tâm linh; việc thờ phượng Giavê Thiên Chúa không phải tại Gơridim hay tại Giêrusalem mà là thờ phượng theo Thần khí và sự thật, nghĩa là tuân theo Thần khí hướng dẫn để hiểu thế nào là chân lý đích thực trong việc phụng thờ Thiên Chúa. Những người thân quen của chị sau khi đến gặp Chúa chắc chắn cũng sẽ hiểu như thế. Chính họ đã nói lên điều đó. "Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian". Chính họ là những cánh tay nối dài đem ánh sáng Tin mừng đến cho miền đất vốn được xem là dân ngoại này.

Hành trình tìm đến đức tin của người Samari nói chung và chị Samari nói riêng giúp mỗi người chúng ta nhìn lại tiến trình sống niềm tin của mình. Chị Samari và những người thân quen của chị đến gặp Chúa, để Chúa hướng dẫn và chính họ ra đi, giới thiệu cho người khác những gì họ cảm nhận khi sống những phút giây thân mật với Người. Còn chúng ta thì sao...?

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ
Ga 4, 5 - 42
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samari, và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.

Người phụ nữ nầy đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa, Chúa đã gợi truyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết : Chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết : Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát : "Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa".

Khựng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samari không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới : không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.

Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa : "Đến mà xem : Có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?". Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samari trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng : "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian".

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư ? Hãy nhớ lời Chúa nói : "Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy". Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tâm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tâm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tâm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bõ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.

Người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.

NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG
Ga 4, 5 - 42
+ Gm Giuse Ngô Quang Kiệt

Từ khi cầu Mỹ thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên chúa.

Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.

Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.

Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.

Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.

Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.

Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách : "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư ? ". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "Cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là "Một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.

Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.

Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.

Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.

Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.

Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống : " con gì mà khủng khiếp quá nhỉ ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

ƠN CỨU ĐỘ CHỨA CHAN NƠI ĐỨC KITÔ
Ga 4, 5 - 42
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Nước là nhu cầu không thể thiếu được trong sinh hoạt hằng ngày. Nếu biển, sông, hồ, suối mà cạn nước, cá và các vi sinh vật sẽ chết khô. Nước tự nhiên rất cần thiết cho con người.

Chúa Giê-su trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay năm A lại nói đến một thứ nước trường sinh, một loại nước vĩnh hằng, ai uống vào sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa đã nói gì với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ thành giếng Gia-cóp ? Qua lời của Chúa Giê-su, người phụ nữ Sa-ma-ri đã nhận ra Đức Tin đang tàng ẩn trong bà và chính Chúa Giê-su đã lấp đầy khát vọng sâu xa của bà.

I. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊSU và NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI

Câu chuyện xẩy ra bên bờ thành giếng Gia-cóp, miền Sa-ma-ri của dân ngoại. Chúa Giê-su đi ngang qua vùng này để nói lên sự hòa giải của Người với dân ngoại. Giếng, giữa một sa mạc khô cằn, hạn hán là nơi gặp gỡ, trao đổi, nơi lãnh nhận sự sống do nguồn nước cung cấp. Giếng cũng gợi nhớ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân của Người trong thời Xuất Hành. Trong câu chuyện hôm nay, thánh Gio-an trình thuật lại một cách rất phong phú về phương diện Giáo Lý. Nhưng chúng ta hãy chú ý tới cuộc đối thoại đầy hứng thú giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri.

Ở đây ta có cảm tưởng, người phụ nữ rất ngạc nhiên khi Chúa Giê-su đi bước trước, xin người phụ nữ ngoại giáo cho mình uống nước, vì đối với dân Do-thái lúc đó, điều tối kỵ nhất là một người có đạo trò chuyện với người ngoại giáo. Ở đây lại còn là giữa một người đàn ông và một người đàn bà. "Chị cho tôi xin chút nước", lời thỉnh cầu này của Chúa Giê-su làm cho người phụ nữ Sa-ma-ri rất khó hiểu và kinh ngạc vì chị hiểu rất rõ mối thù hận lâu đời giữa hai bên.

Tuy nhiên, người phụ nữ đã chấp nhận đi vào cuộc: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông uống nước sao ?" ( Ga 4, 9 ). Người phụ nữ Sa-ma-ri vô tình đang đi vào một cuộc gặp gỡ nhiệm mầu mà bà không bao giờ ngờ trước ! Chúng ta vẫn không khỏi khâm phục Chúa Giê-su đã rất tài tình khéo léo, đặt hết câu hỏi này tới câu thắc mắc khác hầu có thể kéo người phụ nữ đi vào con đường nhận ra Đấng đang nói với bà. Câu chuyện làm cho người nghe có lúc hiểu rằng Chúa Giê-su nói một chuyện, người phụ nữ nói một chuyện. Hai bên khó lòng hiểu nổi nhau. Người phụ nữ nói chuyện dưới đất, Chúa nói chuyện trời cao.

Nhưng cuối cùng, việc Chúa xin nước tự nhiên ở giếng Gia-cóp đã kích thích tính tò mò của người phụ nữ Sa-ma-ri khi Người xoay chiều nói về một thứ nước vĩnh cửu, thứ Nước Hằng Sống mà chỉ có Người mới có quyền ban cho con người. Nước tự nhiên làm cho con người vẫn mãi mãi khát. Còn thứ nước Người cho sẽ làm cho con người không bao giờ còn khát nữa và được sống đời đời. Tin Mừng cho hay: Dù người phụ nữ chưa hiểu ất giáp gì, nhưng bà đã quyết định xin thứ nước lạ lùng vô tiền khoáng hậu ấy.

Tin Mừng trong trích đoạn này càng làm ta ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su chuyển đổi đề tài. Chúa Giê-su chiếu cố ngay tới đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Người đã nói trắng ra tất cả đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Bà ta đã ấp úng xưng Chúa Giê-su là một vị tiên tri, và ý thức tôn giáo đã trỗi dậy trong bà. Đức Giê-su là Đền Thờ Mới ( Ga 2, 19 - 22 ). Vì thế, khi người phụ nữ Sa-ma-ri đề cập tới việc Đấng Mê-si-a mà người ta gọi là Ki-tô, thì chính lúc đó Chúa Giê-su đã có thể tự mạc khải mình cho người phụ nữ: "Đấng ấy, chính là Tôi, đang nói với chị đây" ( Ga 4, 26 ).

Tuy lòng tin chưa sâu đậm bao nhiêu, nhưng người phụ nữ đã bỏ vò nước lại, chạy mau vào thành và loan báo với mọi người về một người đàn ông Do-thái đã biết tất cả dĩ vãng, cuộc đời không mấy tốt đẹp của bà, bà đã thuật lại cuộc gặp gỡ diệu kỳ này, rồi bà kết luận: "Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?" Lời nói của bà lúc này đã dẫn bà tới gần chân lý lắm rồi !

Qua lời chứng của người phụ nữ, nhiều người Sa-ma-ri đã tới và gặp Đức Ki-tô. Bài tường thuật đạt tới đỉnh tuyệt vời với lời tuyên xưng của nhiều người: "...Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian" ( Ga 4, 42 ). Rõ ràng Chúa không phân biệt người có đạo và không có đạo, nhưng Ơn Cứu Độ của Người vẫn luôn được trao ban cho tất cả mọi người.

II. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊ-SU và NGƯỜI PHỤ NỮ SA-MA-RI NÓI GÌ CHO TA ?

Qua cuộc đối thoại đầy hứng thú này, lồng trong khung cảnh Mùa Chay năm 2002, chúng ta hãy duyệt xét lại tiến trình Đức Tin của mỗi người chúng ta.

Đức Tin chúng ta có cần được củng cố hay tự nó có đó mà không cần phải cố gắng phấn đấu, hy sinh và canh tân vươn lên không ngừng ?

Và như thế, chúng ta có biết mở rộng tâm hồn để đón nhận mặc khải của Chúa Giê-su như người nữ Sa-ma-ri hay không, có biết khao khát thứ Nước Hằng Sống của Người hay không?

TA SẼ CHO NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
Lm Paul Maurice Lâm Thái Sơn

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria: Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng và xin nước uống v.v... Bài này ta đã từng nghe qua nhiều lần, nhưng để hiểu rõ tầm mức quan trọng, ta cầu đọc lại trong quan điểm lịch sử, biểu tượng và thực tiễn.

1. Quan điểm lịch sử: Muốn biết tại sao cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bà xứ Samaria gây ra tai tiếng, chúng ta nên dựa vào biến cố lịch sử đã qua.

Mối bất hòa giữa người Do Thái và người Samaria đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lúc mà người Axiri đến xâm chiếm đất Samaria, bắt đi lưu đày một phần lớn dân Samaria như một dân tộc tạp nhạp, lai căng lạc đạo; đã vậy, người Samaria không còn đi lễ ở Giêrusalem mà hành đạo ở đền núi Garidim... Vì không còn giao thiệp với Samaria, do đó bất cứ người Do Thái nào tiếp xúc với dân Samaria đều bị lên án, nặng nhất là người đàn ông Do Thái giao du với phụ nữ Samaria.

Trong tình thế đó, này đây Chúa Giêsu ngang nhiên nói chuyện với người đàn bà xứ Samaria mà không chút sợ sệt. Ngài còn tự do thoải mái ở lại thêm hai ngày nữa. Qua cuộc gặp gỡ và đối thoại này, Chúa Giêsu muốn cho ta thấy ý định của Ngài là dẹp thù hận. Vì đối với Thiên Chúa: không có ai là địch thù, không ai là người bị nguyền rủa và bị khai trừ, không ai mà không được tha thứ... Và Ngài còn ban phát Nước chảy ra sự sống đời đời cho tất cả mọi người, không phân chia giai cấp hoặc màu da sắc tộc, không phân biệt nguồn gốc xứ sở. Vì Thiên Chúa là Tình Thương cho tất cả.

2. Quan điểm biểu tượng: Ao hồ hay giếng nước thường là nơi của sự gặp gỡ (từ khách lạ trở nên bạn hữu), nhưng cũng có thể là nơi tranh chấp (vì tranh giành miếng nước mà trở nên cừu địch).

Giếng nước hay vũng nước, trong sa mạc hoặc những vùng đất khô cằn, không chỉ là nơi mà người người đều dừng lại múc lấy nước để phục hồi sức khỏe sau những ngày đường mệt lả khát nước, mà còn là nơi để người người cùng gặp gỡ, trao đổi câu chuyện và làm quen. Trong Kinh Thánh có những đoạn kể qua cuộc gặp gỡ nơi giếng nước đưa đến chuyện hôn nhân: người đầy tớ của ông Abraham gặp cô Rêbêca (St 24:10-27) từ đó lo chuyện cưới hỏi cho con ông chủ mình là Ygiaác. Ông Giacóp và cô Rakên (St 29:1-14) cũng gặp nhau tại giếng nước và hai người đã trở thành vợ chồng.

Vậy thì giếng nước trong bài Phúc Âm hôm nay, nơi mà Chúa Giêsu gặp người đàn bà xứ Samaria, cũng có tính cách biểu tượng: vì tại giếng nước này phát hiện một giao ước thiêng liêng, một cuộc đính hôn giữa Đức Kitô với nhân loại, cho dù loài người có bất xứng, đầy tràn tội lỗi... Ngài hứa ban "nước hằng sống" cho bất cứ ai tìm đến giải khát nơi Ngài và Ngài còn tuyên bố "từ nay mọi người sẽ không còn hành đạo tại núi này hay đền thờ nọ, nhưng đã đến lúc phải tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý".

Lời nói của Chúa Giêsu thật quá kỳ diệu, đánh động tâm hồn người đàn bà Samaria, khiến bà quên đi cả việc múc nước. Nước giếng không còn là mối bận tâm và không làm bà khao khát nữa, bà cũng không còn khao khát những mối tình trần tục (bà có sáu đời chồng), vì Lời Chúa vừa đem đến sự giải khát cho bà, và sau khi tin phục thì "nước Chúa (Lời Chúa) vừa ban cho bà thì nơi bà trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", từ một người đàn bà xa lạ, bà đã trở nên môn đồ của Chúa qua việc để lại vò và chạy về thành loan báo cho mọi người: "Mau hãy đến xem... người đó là Đấng Kitô".

3. Quan điểm thực tiễn: Ta có thể khẳng định rằng đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhận rõ cuộc sống. Như xưa kia Chúa Giêsu đã làm phát sinh nước hằng sống nơi xứ Samaria, đất của dân ngoại, của những người bị miệt thị khinh chê... thì nay chúng ta cũng được mời gọi nên biết đón nhận những người Samaria, tức là những kẻ không cùng ý hướng tín ngưỡng với chúng ta và những kẻ bị người khác khinh thường loại bỏ, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị của những người khác biệt với chúng ta.

Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ nay phải biết tìm đến uống nước Hằng Sống (các Bí Tích) phát sinh từ nơi Ngài: Lời Ngài tuôn chảy như một giòng suối đánh đổ những hiềm khích hận thù, tẩy sạch những kỳ thị bất công và loại bỏ việc sùng bái các tà thần ngẫu tượng (của cải tiền bạc, lợi danh quyền chức...) để chúng ta trở nên những con người hoàn toàn tự do, biết thật sự yêu thương tha nhân và "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý".

NƯỚC TÔI CHO SẼ ĐEM LẠI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Ga 4, 5 - 42
Lm Augustine S.J.

Nếu anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào!
Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân làng bên cạnh cũng được mời. Ông Hồ Mua tới mời bốn vị thừa sai người ngoại quốc lên nhà rông uống rượu với ông, rượu riêng của ông. Mọi người đã tụ tập và trò chuyện ồn ào, hơi men bốc lên đầu. Ông Hồ Mua uống ít, gương mặt có vẻ lo âu.

Nhóm người ngoại quốc ngồi tại nhà rông khá lâu mới thấy ông Hồ Mua đứng phắt dậy, và bằng một giọng oang oang, ông nói:

"Tôi biết có nhiều người đã kết tội tôi vì làm bạn thân với những người Kinh xa lạ này, và tôi cũng nhận thấy người ta trách tôi tại sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu này. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù ở giữa chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu đối với chúng ta? Họ đã phạm điều bất công nào? Nếu họ đã ăn gạo của các người thì họ trả tiền sòng phẳng và không ai buộc các người phải bán cho họ thứ gì. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm nói lén và âm mưu ác đức trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng lên xem! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành, và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ."

Vừa dứt lời, ông Hồ Mua bỗng nhảy bổ tới cạnh bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy và cắm ngay vào miệng, rồi gọi đích danh tên đầu đảng âm mưu sát hại nhóm thừa sai ngoại quốc và nói: "Nếu mày dám chống lại tao, thằng hèn nhát, thì hăy cắn vào thanh củi này tiếp theo tao. Hãy thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày."

Tôi đã hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả!

Một sự im lặng căng thẳng đè nặng trên căn nhà trước đó vang lên tiếng chuyện trò huyên náo, đến độ người ta có thể nghe thấy tiếng ruồi bay giữa gian nhà đông đặc những người. Không ai dám đứng lên đối đáp với ông Hồ Mua. Tên đầu đảng bị gọi đích danh, run lên như tàu lá trước gió thổi. Chàng ta xin lỗi ríu rít. Và màn kịch chấm dứt ở đó.

Riêng cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) và các bạn thừa sai người ngoại quốc chưa biết tiếng Bana, nên không hiểu gì về màn kịch nói trên. Ba năm sau tên đầu đảng trở lại đạo và được chịu phép rửa, các ngài mới rõ câu chuyện. Khi ấy nhớ tới tội tày đình anh suýt gây nên, anh vô cùng hối hận và đã sấp mình dưới chân cha Cung (Combes) và xưng thú. Anh nói với cha Cung: Thưa cha, khốn cho con là kẻ đã từng mưu sát cha. Nhưng bây giờ, nếu ai muốn tấn công cha, thì con sẽ sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì cha. Người đó sẽ phải bước qua xác chết của con mới có thể làm hại được cha."

Nhất là tôi đã phải xa lìa người mẹ tốt lành thánh thiện với biết bao đau lòng đứt ruột!

Quả thật, khác hẳn với bối cảnh ba năm về trước, khi cha Bộ và các thừa sai mới tới làng Cồn Cát, mọi người đều chạy trốn. Cha Bộ đã đau lòng ghi lại như sau: "Khi thấy anh chị em dân tộc chạy trốn chúng tôi, thì tim tôi như ứa máu, quặn đau không sao kể xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samari rằng: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4,10). Những lời dịu dàng này thường đến với tâm trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh chị em dân tộc hiểu được mình; cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi la lên từ xa, với những kẻ chạy trốn: Hỡi anh chị em dân tộc đáng thương và yêu quí! Ước gì anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào và tôi muốn làm điều tốt lành cho anh chị em, tôi đã từng hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, xem thường bão tố! Ước chi anh chị em biết được tổ quốc tôi như thế nào mà tôi đành lìa bỏ vì anh chị em! Nhất là anh chị em biết người mẹ tốt lành, thánh thiện của tôi ở nơi đó, cách xa đây hàng ngàn dặm, mà tôi phải xa lìa với biết bao đau lòng đứt ruột! Và tất cả những điều đó tôi chịu chỉ vì thương yêu anh chị em, thế mà anh chị em lại chạy trốn tôi, lại sợ tôi là người bạn tốt nhất của anh chị em!"

Trong câu chuyện vừa kể theo Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, cha Đỗ Đình Bộ ước ao biết bao để anh chị em dân tộc Bana nhận ra tình thương ngài dành cho họ: Còn trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu ước ao biết bao dân ngoại Samari nhận ra cái mới Người mang lại cho họ: Đó là suối nước vọt tới sự sống vô cùng vô tận; đó là nền phụng tự đích thực hợp với Đấng là Thần Khí. Cái mới ấy nối tiếp một loạt cái mới khác trong Tin Mừng Gioan dưới biểu tượng rượu mới tại Cana; Đền thờ mới chính là thân thể Đức Giêsu; cuộc tái sinh vượt bậc trong nước và Thần Khí. Đức Giêsu nhấn mạnh về của ăn Người dùng thường ngày là thể hiện ý của Thiên Chúa Cha. Ý ấy phần nào nhắm thẳng cánh đồng truyền giáo đã chín muồi cho việc gặt hái.

Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào, mà ngày nay người dân vẫn còn đến kín nước. Chính nơi đây diễn ra hai cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (cc.7-26); giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc.31-38).

Với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời (c.14) vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp. Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ của bà, đó là điều khiến bà đặt niềm tin vào Đức Giêsu (c.19).

Người phụ nữ Samari còn được cho biết về phượng tự trong thần khí và sự thật: "Giờ đã đến... những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (c.23).

+ Với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết "Lương thực của Thầy là thi hành y muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người." (c.34). Người còn gợi ý để họ phóng cái nhìn về cánh đồng truyền giáo đã chín vàng đang chờ đợi ngày gặt (c.35).

Kết luận: Nhiều người Samari tin Đức Giêsu thật là Đấng cứu độ trần gian (c.42).

NƯỚC TRƯỜNG SINH
Ga 4, 5 - 42
Sr Angelina Thanh Nga, LHC

Vào một buổi trưa hè oi ả, ánh nắng chói chang gay gắt giữa ngày như đang dồn hết sức nóng đổ xuống con đường làng nhỏ ngoằn ngoèo dẫn đến một bờ giếng. Cây cỏ bên đường lặng yên bất động, trời không một chút gió. Không gian thật im vắng như đang lắng nghe và chờ đợi một sự việc quan trọng sắp xảy đến.

Thấp thoáng trên đường làng bóng một người phụ nữ đang lầm lũi bước đi với dáng điệu mệt mỏi và đăm chiêu, một tay nàng cầm chiếc vò đã cạn nước, tay kia thỉnh thoảng đưa lên lau vội những giọt mồ hôi loang loáng trên khuôn mặt thoáng nét ưu tư. Bỗng nhiên nàng khựng lại khi thấy bên cạnh bờ giếng, một người đàn ông đang ngồi trầm ngâm, yên lặng. Hôm nay khác hẳn với mọi ngày vì sự hiện diện của người khách lạ. Nàng tự hỏi: "Ông ta làm gì ở đây? Tại sao không thấy kín nước mà chỉ ngồi yên như đang chờ đợi điều gì?". Một thoáng lúng túng chợt đến! Người khách lạ dường như đã đọc được những ý tưởng cũng như tâm trạng của người phụ nữ, nên đã lên tiếng mở đầu cuộc đối thoại.

Ông khách xin nàng một chút nước rồi lại ngỏ ý muốn cho nàng một thứ nước mà uống vào sẽ không còn khát nữa! Người đàn ông này thật lạ lùng. Hình như ông đã biết rõ cuộc đời nàng, và dường như sự gặp gỡ buổi trưa hôm nay bên bờ giếng không phải là một tình cờ!

Ngày nào đó, có thể là hôm nay, Chúa Giêsu đến để gặp gỡ và trao đổi câu chuyện với bạn và tôi như Ngài đã đến với người phụ nữ Samaria thuở nào.

Ngài đến vào một buổi trưa hè của cuộc đời, khi mọi sự ở chung quanh hầu như không còn ý nghĩa, tất cả như câm nín, ngưng đọng và trở nên nặng nề, khó thở.

Ngài đến khi những gay gắt và xáo trộn của cuộc đời đang đổ xuống trên chúng ta: thất bại trong công ăn việc làm, chia ly, đổ vỡ trong gia đình, một người thân qua đời, bạn bè hoặc người yêu phản bội, thất tín, bị ghen tương, hiểu lầm, vu khống...

Ngài đến giữa lúc chúng ta đang miệt mài kéo nước từ bờ giếng của những tham vọng, những đam mê nhất thời và mau qua hầu thoả mãn cơn KHÁT đang nung nấu tâm hồn. Thế nhưng những ngụm nước ấy không đủ sức giải khát tâm hồn, lòng chúng ta vẫn luôn luôn bất an và khắc khoải.

Hôm nay, bất chợt Chúa Giêsu đến giữa buổi trưa hè nóng bức ấy, bên cạnh bờ giếng của những đam mê quen thuộc, với ánh mắt hiền dịu nhưng trong suốt và với một giọng êm ái trầm ấm, Ngài xin chúng ta cho Ngài nước đó, Ngài thông cảm với cơn khát của chúng ta và còn hơn thế nữa, Ngài muốn ban tặng cho chúng ta một nguồn nước sự sống vĩnh cữu, nước sẽ làm thoả mãn cơn khát của tâm hồn, và chúng ta sẽ được no thoả. Nước ấy là chính Chúa Giêsu Kitô!

Đối diện và gặp gỡ Ngài trong Bí tích Thánh Thể, trong kinh nguyện và Lời Hằng Sống, chúng ta sẽ được biến đổi. Đối diện và gặp gỡ Chúa Giêsu cũng chính là lúc chúng ta đối diện và gặp chính mình. Người phụ nữ đã nhận ra chính mình, đồng thời bà cũng nhận biết Chúa. Một niềm vui dâng trào trong con tim, và bà đã để vò nước lại nơi bờ giếng, tất tả chạy về nói với mọi người niềm vui của bà. Bà đã được uống nước trường sinh và từ nay đời bà sẽ hết cô đơn héo hắt.

Bạn thân mến, mùa Chay là lúc mà Giáo hội khuyến khích chúng ta cũng có thói quen làm những việc chay tịnh bên ngoài. Ước gì qua việc ăn chay bên ngoài làm cho chúng ta cảm nhận và ý thức được sự đói khát sâu thẳm trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Đó chính là sự đói khát chân, thiện, mỹ, và chỉ duy một mình Thiên Chúa là Đấng có thể thoả mãn khát vọng sâu thẳm nhất đang chất chứa trong con tim của mỗi người.

ĐỨC KITÔ - MẠCH NƯỚC HẰNG SỐNG
Ga 4, 5 - 42
John Nguyễn

1. Khát vọng của con người không bao giờ được thỏa mãn
Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo...

Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy... Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.

Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em... Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.

2. Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?

Đức Giê-su nói: "Ai uống nước này, sẽ lại khát". Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa.

Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Đức Giê-su đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: "Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời". Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành "một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy "đem lại sự sống đời đời".

Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Ki-tô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta.

Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Ki-tô.

3. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?

Nhiều khi ta đến để gặp Chúa - trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v... - nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa.

Cổ nhân có câu: "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng" (Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có "duyên" với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau).

Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương - nghĩa là giống Thiên Chúa - mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: "Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,7a-8). Chữ "biết" ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.

Đức Giê-su nói: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem". Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian - tức chỗ này chỗ kia - không phải là chuyện quan trọng: "Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra" (Cv 7,48). Đức Giê-su cũng nói: "Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật". Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.

4. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.

Để giải thích điều này, Đức Giê-su nói: "Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật". Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình - tức tâm hồn mình - để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình.

Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì "con người là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em" (1Cr 3,17; x. 6,19).

Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh đã từng than thở: "Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con" (Confession, cuốn VI, chương 1).

Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, "có nói có, không nói không" (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một nẻo.

CẦU NGUYỆN
Tôi nghe thấy tiếng Chúa: "Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn".

ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?
Ga 4, 5 - 42
Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

Không ít các nhà chú giải Thánh Kinh đã có cùng nhận xét: Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ một câu hỏi vô cùng căn bản: "Các con bảo Thầy là ai?" Tính chất tồn vong hay tiến lùi của đạo Kitô đều dựa vào yếu tố trả lời cho câu hỏi đó. Không phải chỉ có trong thời của Đức Giêsu người ta mới nói: "Ngài là Êlia, Gioan Tẩy giả, hay một tiên tri nào đó", nhưng sau hơn 20 thế kỷ, tức sau một thời gian dài của nghe biết, học hỏi, và suy tư, vẫn không ít người, như anh em Hồi giáo, cho Ngài là một tiên tri lớn, hay dân Hy lạp xem Ngài là một hiền triết rất đáng kính trọng, hoặc dân Do thái chỉ coi Ngài như một con người siêu việt, không hơn không kém.

Nếu cùng một câu hỏi "Đức Giêsu là ai?" được đặt ra cho bạn và tôi, chúng ta sẽ trả lời thế nào?

Phải chăng Ngài là một thủ kho để khi khổ đau túng thiếu, ta chạy đến Ngài nài van khấn hứa? Rồi nếu lời ta cầu được như ý thì mình hăng hái tin Chúa hơn một tí, yêu Chúa hơn một tí. Còn nếu không được gì thì ta chán Chúa, chán nhà thờ, và chán đạo thêm một chút chăng?

Hay Đức Giêsu là một ông "kẹ", một quan án nghiêm khắc, để hễ ta phạm tội là Ngài giáng xuống ít điều xui xẻo cho sáng mắt ra? Không chừng vì xem Chúa như ông kẹ, nên việc giữ đạo hay sống đạo của tôi cứ mãi chìm ngập trong sợ hãi, cốt sao cho khỏi sa hỏa ngục là mừng lắm rồi.

Hay có phải Đức Giêsu là một tượng thạch cao vô tri vô giác, chẳng đụng chạm gì đến con người, cuộc đời, và thế giới của tôi?

Thiết tưởng, nêu lên vấn đề qua việc nhìn lại câu hỏi căn bản của Chúa Giêsu, hầu tái khám phá chân dung đích thật của "Con Người" mà mình đang tin theo, hẳn không phải là chuyện vô bổ.

Chắc chắn ai cũng công nhận Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử: sinh ra trong xã hội Do thái, lớn lên dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, chết trong thời quan Philatô làm tổng trấn Giuđêa. Ngài có những tính chất rất người. Ấy là ngài cũng buồn, vui, sướng, khổ, khóc than, mệt nhọc... và đồng thời là một người rất hiểu biết, cảm thông, và nhân ái.

Ngài hiểu rằng là con người, ai cũng khát khao hạnh phúc. Trong câu chuyện bên giếng Giacóp với người phụ nữ xứ Samari, những mẫu đối thoại đã nêu lên điều đó. Chúa Giêsu nói với người đàn bà: "Cô nói cô không có chồng là đúng lắm. Nhưng đúng hơn là cô đã có 5 đời chồng, và người đang sống với cô lại không phải là chồng cô". Đức Giêsu nói thế không phải để vạch trần hay lên án tình trạng vô luân của người đàn bà, song là tỏ bày một sự hiểu biết về niềm khao khát hạnh phúc nơi con người: con người tìm kiếm liên lỉ, tìm kiếm đến 5, 6 đời chồng mà vẫn thấy chưa thoả.

Đức Giêsu cũng rất cảm thông trước nỗi khổ đau của nhân loại. Ngài từng dừng lại bên cửa thành Naim, thổn thức và chia sẻ nỗi niềm của một người đàn bà góa có đứa con trai qua đời. Niềm an ủi và chỗ tựa nương duy nhất không còn nữa. Nỗi đau thương đã đến tận cùng!

Đức Giêsu cũng từng rơi nước mắt, xót xa cho sự mất mát của hai chị em Matta và Maria khi Lazarô bị thần chết chế ngự.

Nhưng Đức Giêsu không dừng lại nơi đó. Ngài không dừng lại với việc tỏ bày vai trò của một tiên tri khi biết hết chuyện đời người ta, hay một tâm lý gia đại tài khi biết lắng nghe, chia sẻ, và cảm thông với người khác. Song Ngài đã bộc bạch vai trò và chân dung của một Vị Thiên Chúa, một Đấng Cứu Độ - Đấng Giải Thoát.

Chúa Giêsu không chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của mình về nhu cầu hạnh phúc của con người với những khắc khoải kiếm tìm mà qua 6 đời chồng vẫn bế tắc, uống mấy vẫn còn khát. Trái lại, Ngài còn chỉ ra mạch nước mà khi uống vào sẽ không còn khát nữa. Mạch nước đó phát sinh từ chính Ngài. "Ai uống nước Ta ban sẽ không hề khát... Ai tin vào Ta sẽ sống muôn đời".

Chúa Giêsu không dừng lại với những cảm thông mất mát, chia sẻ khổ đau, và khóc than cái chết của con người. Nhưng Ngài còn chứng tỏ sức mạnh của một Thiên Chúa khi phục sinh kẻ chết, thánh hoá khổ đau, và mang lại niềm vui cứu độ cho thế giới.

Đó là tất cả những gì cần nói về chân dung của Đức Giêsu. Đó là tất cả những gì thánh Phêrô đã tuyên xưng: "Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16). Đó là lời xác tín của dân làng Samari sau khi được Chúa ghé thăm: "Chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế" (Ga 4:42) Và đó cũng là tất cả những gì thánh Cyrilliô, một trong những nghị phụ nổi bật của Công dồng Êphêsô đã xác định: "Chúa Giêsu phải là con người toàn hảo để hiểu thấu và cảm thông tất cả những yếu đuối, tội lỗi, bất toàn của chúng ta. Và Chúa Giêsu phải là Thiên Chúa để cứu chuộc chúng ta". Bởi vì hiểu mà không cứu thì ăn thua gì, và cứu mà không hiểu thì cũng chỉ cứu nửa vời.

Thế nhưng, cái sức mạnh cứu chuộc - nguyên lý khiến cho Thiên Chúa hiểu thấu, cảm thông, và cứu độ - lại nằm trong một yếu tố duy nhất. Đó là Tình Yêu. Như vậy, nói cô đọng, chân dung của Chúa Giêsu là chân dung của Tình Yêu. Và như thế đọc lại Thánh Kinh bạn sẽ chỉ thấy hình ảnh của một Tình Yêu đau khổ, một Tình Yêu cảm thông, một Tình Yêu tha thứ, một Tình Yêu hiểu biết, một Tình Yêu khoan dung, một Tình Yêu chịu đóng đinh, một Tình Yêu cứu độ, một Tình Yêu mang lại sự sống.

Khám phá ra dung mạo của Chúa Giêsu là yêu thương như thế thì tìm Chúa và theo Chúa nghĩa là gì nếu không phải là tiến đến với cội nguồn yêu thương đó. Đành rằng trong yêu thương cũng có muôn lối đi, ngàn phương đến, nhưng đích điểm vẫn là để bước vào cuộc tình sâu thẳm với Đức Kitô, và đồng thời làm sáng tỏ dung nhan Ngài qua đời sống thân ái với tha nhân.

Nguồn vietcatholic.org

1193    21-03-2014 15:45:22