Sidebar

Thứ Bảy
20.04.2024

Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên A 2014

  1. Thầy Ở Cùng Anh Em
  2. Chúa Trong Cuộc Sống
  3. Ý Nghĩa Thăng Thiên
  4. Sứ Mệnh
  5. Đất Trời Giao Duyên
  6. Lệnh Lên Đường
  7. Khát Vọng Lên Trời Cao
  8. Sứ Mạng Truyền Giáo Của Giáo Hội
  9. Tiếp Tục Loan Báo Ơn Cứu Độ
  10. Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng
  11. Sứ Mệnh Của Người Kitô Hữu
  12. Về Galilê
  13. Lên Trời: Ước Mơ Cao Đẹp
  14. Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Lên Trời
  15. Quê Hương Đích Thực
  16. Sứ Mạng Truyền Giáo
  17. Điểm Hẹn Galilê
  18. Xây Dựng Nước Trời
  19. Ái Mộ Những Sự Trên Trời
  20. Chúa Về Trời
  21. Chúa Về Trời
  22. Về Trời

THẦY Ở CÙNG ANH EM
Mt 28, 16 - 20

Mấy năm trước, một giáo phái bên Mỹ, qui tụ được năm bảy chục người gì đó. Ông giáo chủ cũng là người có uy tín nên nói ra câu nào cũng được các đệ tử lắng nghe, dù ông cũng lợi dụng sự cả tin của tín đồ, để thu góp của cải của họ. Năm 2003, ông giáo chủ bảo ngày 20 tháng 12 năm này, các người ở tinh cầu mới sẽ đến vào ban đêm để rước họ đi lên ở trên tinh cầu mới đó. Sống trên tinh cầu đó được so sánh như lên thiên đàng. Các môn đồ đã tin vào lời ông giáo chủ; vào giờ đó ngày đó, ông giáo chủ và môn đồ đều tự sát để được rước lên tinh cầu mới. Ai sợ chết, đều bị ép buộc tự sát... Vài hôm sau, cảnh sát mới phát hiện, dân quanh vùng báo vì mùi hôi thôi xông lên...Chúa nhật hôm nay, Hội thánh cũng nói về việc Chúa Giêsu lên trời trong vinh quang. Tuy nhiên việc lên trời này đáng hân hoan, không phải đáng kinh sợ như câu chuyện chúng ta nghe ở trên. Kính mời suy niệm...

a/. Trước hết, theo bài Tin Mừng hôm nay, Matthêu tường thuật biến cố Chúa về trời cách đặc biệt: Chúa Giêsu hẹn 11 tông đồ và một số môn đệ, đến miền Bắc Galilêa, nước Do Thái, trên một ngọn núi, không rõ là ngọn núi nào... Tại đó, trước khi về trời, Chúa nói mấy lời từ biệt, dặn dò các ông với những lời nói vừa trang trọng, vừa rất thân tình, dạy các ông phải tiếp tục sứ mạng đem giáo lý và ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Đó chính là sứ mạng Chúa Cha đã giao phó cho Ngài; giờ đây Ngài đã hoàn tất trong vinh quang, nên Ngài phải về bên Chúa Cha. Dù vậy Chúa Giêsu cũng hứa hẹn với các ông là không bỏ các ông mồ côi. Ngài về trời để dọn chỗ cho các ông; nhưng trong khi còn ở trần gian, Ngài vẫn ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế...

b/. Sau đây là một vài câu hỏi suy niệm: * Tại sao nói Chúa Giêsu về trời trong vinh quang? Chúng ta phải nghĩ thế nào?

Thưa chính là vì Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng Chúa Cha giao phó cách tốt đẹp, về trời trong vinh quang chính là để được Chúa Cha tôn vinh...Chúa Con về trời là về cùng Chúa Cha, về bên Chúa Cha, để được Cha khen thưởng, để được tôn vinh, vì đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng cứu chuộc Cha giao phó. Chúa Cha yêu Chúa Con hết mực, thế mà khi Chúa Con làm tròn sứ mạng Cha giao phó, chẳng lẽ Cha không vui, chẳng lẽ Cha không khen thưởng? Chúng ta thử suy nghĩ: sau khi Chúa Con hoàn tất công việc cứu chuộc cách xuất sắc, nếu Chúa Cha không khen thưởng Chúa Con, đó mới là điều lạ chứ! Vì Chúa Cha tôn vinh Chúa Con, nên Chúa Con về trời để được trao cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt 28, 18), vì thế Chúa mới sai các môn đệ tiếp tục công việc của Chúa...

* Khi Chúa về trời, Ngài có bỏ môn đệ mồ côi không? Chúa về trời, có nghĩa là không còn hiện diện với các môn đệ bằng thể xác vật chất nữa, không còn cùng ăn cùng ngủ, giảng dạy họ hằng ngày, nâng đỡ đời sống vui buồn sướng khổ với họ trực tiếp, như khi Chúa còn sống. Dù vậy lời Chúa nói: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế, đây không phải là câu nói ngược. Hội thánh Chúa Giêsu thiết lập ở trần gian, trên nền tảng các tông đồ luôn vẫn có Chúa hiện diện cách thiêng liêng, qua các bí tích, nhất là qua sự hiện diện đầy ơn sũng của Chúa Thánh Thần...

Một điều khác, Chúa về trời thì có lợi cho các tông đồ (Gn 16, 7) : Thầy không đi, thì Thánh Thần sẽ không đến (Gn 16, 7) - Thầy đi để dọn chỗ cho anh em (trong Nước Trời) (Gn 14, 2) - Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy (Gn 14, 3).

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Nghe nói về Nước Trời, quê hương trên trời, ai nghe cũng thích, cũng ham muốn cả; tuy nhiên muốn được lên trời, ta có sẵn sàng sống ở dưới đất này cho đàng hoàng tử tế, để mai sau đáng được lên trên đó không? Nhất là ta có cố gắng sống đúng lời Chúa dạy không?

CHÚA TRONG CUỘC SỐNG
Mt 28, 16 - 20

Nói đến tình bạn tri kỷ thâm giao, tôi chợt nhớ đến câu chuyện Lưu Bình và Dương Lễ. Đôi bạn tri kỷ này đã sống chết có nhau, cho dù phải trải qua những sóng gió của cuộc đời.

Lưu Bình là một chàng trai giàu có và phong lưu, trong một hoàn cảnh bất ngờ, anh gặp một chàng thư sinh nghèo khó nhưng hiếu học là Dương Lễ. Hai người kết nghĩa huynh đệ. Dương Lễ hiếu học nên đến kỳ thi anh đạt được công danh. Còn Lưu Bình vì có tiền của nhiều nên anh không chăm học, đến kỳ thi, anh đi không rồi lại trở về không. Anh cũng không buồn sầu lo lắng gì, cứ mãi lo ăn chơi. Dương lễ đau xót nhưng khuyên bạn không được. Việc gì đến rồi cũng phải đến.

Một hôm Lưu Bình đến nhà Dương Lễ xin tá túc, vì nhớ đến tình bạn tri kỷ mà hai người đã từng thề ước với nhau, đồng thời Lưu Bình còn nhớ đến những gì mà mình đã từng cưu mang nên Dương Lễ mới được như ngày hôm nay. Nhưng nào ngờ, khi vừa nhìn thấy người bạn năm xưa, Dương Lễ trở mặt không nhìn, còn nói những lời chê bai thậm tệ. Lưu Bình thất vọng bỏ đi, lòng buồn cho thế thái nhân tình. Trong lúc thất vọng, anh gặp được một người an ủi và lo lắng. Từ đó anh cố gắng học hành để đạt cho được ý nguyện, trước tiên là để trả thù cho thế thái nhân tình, kế đến là để làm lại cuộc đời. Ngày vinh quang đã đến, trời không phụ lòng người. Anh vội trở về tìm người đã giúp anh làm nên danh phận, nhưng không thấy, anh đến nhà người bạn mà anh cho là bất nhân, để tìm cách trả lại mối hận năm xưa. Nhưng lại một bất ngờ nữa, người đã từng giúp anh trong những tháng ngày gian khổ, giờ đây lại đang ở bên cạnh người mà anh cho là bất nhân. Anh chợt hiểu ra, vì lo lắng yêu thương, nên người bạn tri kỷ đã dùng khổ nhục kế và cho người vợ thân yêu nhất của mình giúp đỡ anh lập được công danh. Đôi bạn càng hiểu nhau càng thương mến nhau hơn.

Chỉ có tình yêu thương chân thành, mới có thể làm cho tình bạn cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể như là ở kề cận để lo lắng cho nhau.

Chúa Giêsu chuẩn bị mọi sự thật chu đáo trước khi Ngài rời xa các môn đệ. Ngài truyền lệnh cho các ông thi hành "các con hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần", không phải chỉ có thế, Ngài còn hứa một điều hết sức quan trọng: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Các môn đệ không còn buồn sầu lo lắng gì nữa, mà các ông thi hành mệnh lệnh đã được trao cho. Các ông thi hành với một con tim cháy bừng lửa yêu thương, với một niềm tin vững mạnh là luôn có người mình yêu thương ở bên cạnh.

Mỗi người trong chúng ta đang sống trong tình yêu thương, mà Chúa Giêsu cũng chuẩn bị chu đáo cho chúng ta trong mọi việc và Ngài cũng hứa như các tông đồ khi xưa: "Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế". Nhưng nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta sống dường như không có Chúa bên cạnh, chúng ta mãi đi tìm những thú vui cho riêng mình mà để ngoài tai tất cả mọi lời nói, lời khuyên can. Những gương tốt ngay trước mắt, chúng ta cũng không cần nhìn đến. Những khi sa cơ thất thế, chúng ta quay qua phiền trách tất cả mọi người, phiền trách cả Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta ngỡ rằng Ngài ở tận trên trời xa xôi nên không nhìn thấy cũng không biết những gì chúng ta đã và đang làm.

Nếu chúng biết thức tỉnh như anh chàng Lưu Bình, thì cơ may vẫn còn đến với chúng ta, khi đó chúng ta đã nhận ra ơn Chúa qua những người chung quanh, qua những bàn tay giúp đỡ chúng ta, qua những lời nói chân thành, có khi còn qua những thất bại trong cuộc đời. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, thì bất cứ giờ phút nào Ngài vẫn luôn ở bên chúng ta như Ngài đã hứa. Nếu chúng ta biết tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, biết đến với mọi người để đem mọi người về làm môn đệ của Chúa, một môn đệ của Tình Yêu Thương, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta được biết nhận ra Chúa trong cuộc sống hằng ngày, để biết luôn lắng nghe và vâng phục Thánh Ý Chúa.

Ý NGHĨA THĂNG THIÊN
Mt 28, 16 - 20

5g17' sáng ngày 19.04 vừa qua, mọi người đã chứng kiến một bước tiến mới của ngành viễn thông Việt Nam khi vệ tinh đầu tiên của Việt Nam bay vào không gian. Từ độ cao 35.768 km so với mặt đất, vệ tinh Vinasat-1 sẽ trở thành người bạn đồng hành không mệt mỏi trong suốt vòng đời 15-20 năm của nó nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân Việt Nam .

Hai tuần sau đó, tức là hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành thánh lễ mừng kính biến cố thăng thiên của Đức Giêsu, biến cố đánh dấu lần hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu với các Tông đồ; để rồi từ đó trở đi, Người đồng hành cách thiêng liêng với Giáo Hội trong hành trình hướng về quê trời. Từ sự kiện thời sự vừa xảy ra, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về biến cố thăng thiên của Đức Giêsu trong đời sống chúng ta.

Vệ tinh Vinasat-1 khi bay vào không gian, nó được định vị tại một khoảng không gian dành riêng cho nó, quỹ đạo 132 độ Đông. Còn khi nói Đức Giêsu lên trời, chúng ta phải hiểu thế nào? Có phải Người đi đến một nơi có thể định vị được trong không gian bao la nầy không? "Trời" của Kinh Thánh không nhất thiết đồng nghĩa với "trời" của con người. Khi nói Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người bay lên khoảng không gian trên đầu ta. Trời là nơi Thiên Chúa ngự, mà Thiên Chúa không lệ thuộc vào thế giới vật chất như con người, nên "nơi" của Ngài không lệ thuộc không gian và thời gian, không xác định cụ thể một nơi có thể đo đạc và nhìn thấy được. Do đó, khi nói Đức Giêsu lên trời, ta không nên hiểu Người bay lên một nơi nào đó trên tầng mây xanh; trái lại, phải hiểu rằng Người về cùng Chúa Cha và Chúa Cha "tôn vinh Người lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai" (Ep 1,21).

Vệ tinh Vinasat-1 sẽ phủ sóng toàn cõi Việt Nam và một số nước khác trong vùng, giúp cho việc truyền tải thông tin dễ dàng hơn. Nó sẽ là công cụ hữu dụng cho ngành viễn thông Việt Nam . Còn Đức Giêsu lên trời đem lại lợi ích gì cho con người nói chung, cách riêng là những Kitô hữu chúng ta? Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Người sẽ mãi mãi rời xa chúng ta. Ngược lại, Người sẽ ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Nếu như trong thân xác thể lý trước đây, Người chỉ hiện diện tại một nơi trong cùng một thời gian mà thôi; thì giờ đây, với thân xác phục sinh không còn lệ thuộc thời gian và không gian, Người hiện diện với mọi người và bên mỗi người để nâng đỡ, ủi an, dìu dắt tất cả đến với Chúa Cha. Không những thế, Thánh Thần của Người sẽ hoạt động mạnh mẽ để tăng sức cho con người yếu đuối có đủ khả năng tiến về quê trời. Đức Giêsu lên trời vừa là bảo chứng cho cuộc sống vinh quang thiên quốc, vừa phát sinh nguồn lực dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.

Vệ tinh Vinasat-1 đã đi vào không gian nhưng con người phải biết cách sử dụng và khai thác đúng cách thì nó mới đem lại lợi ích cho con người. Đức Giêsu lên trời cũng sẽ chỉ là một biến cố lịch sử, chẳng có ích gì nếu chúng ta không nhận biết được ý nghĩa của sự Thăng Thiên, và sống tích cực với ý nghĩa ấy. Mỗi Kitô hữu, qua kho tàng đức tin của Giáo Hội, nhận ra rằng Đức Kitô Phục Sinh luôn hiện diện bên mình, trong đời sống mình; và mình có nhiệm vụ làm sáng lên hình ảnh Người bằng cuộc sống giữa lòng xã hội. Đồng thời, theo lệnh truyền của Đức Kitô, mỗi người cũng được mời gọi làm cho mọi người nhận biết sự hiện diện của Người bằng lời nói và bằng chính hình ảnh sống động của Đức Kitô nơi bản thân mình. Có như thế, "vùng phủ sóng" của Đức Kitô Phục Sinh mới rộng lan trong lòng thế giới và trở nên hữu hiệu cho hành trình tiến về sự sống đời đời của con người.

Mừng Đức Giêsu lên trời, chúng ta hướng lòng lên cao, chiêm ngưỡng Đức Giêsu là mẫu mực cho đời sống mình, rồi trở về cuộc sống thường nhật, ra sức bắt chước Người trong cách ăn, nết ở; để "tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Nhờ đó, sức sống của Đức Kitô phục sinh ở mãi trong ta và rồi lan rộng cho mọi người bên ta.

SỨ MỆNH
Mt 28, 16 - 20

Trong lá thư của cha tuyên uý Vania gởi cho cha me trước khi gục ngã dưới làn mưa đạn đại để như sau: "Cha mẹ yêu dấu Thiên Chúa đã vạch chỉ cho con con đường con phải theo Ngài. Con không chắc là có thể còn sống để trở về với cha mẹ nữa, con không cảm thấy lo sợ vì có Chúa ở cùng con. Người ta cấm cản không cho con rao giảng về Chúa, và con phải trải qua nhiều khó khăn thử thách, thế nhưng con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ, mà tiếp tục rao giảng Tin Mừng và tình yêu Chúa Kitô, bởi vì đó là điều Thánh Linh đã phán bảo con; Hôm mùng 10 tháng này, khi con rao giảng một binh sĩ đã tin Chúa".

Qua đời sống chứng nhân của cha Viana, rao giảng là một công việc rất cần thiết và hệ trọng, một công việc phải được xuất phát từ một con tim quảng đại, nhiệt thành trong tình yêu Chúa. Để được như thế thì lời Đức Giêsu nói với các môn đệ trước khi Ngài về trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; giảng dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con", không phải là một lời nói thông thường mà như một lời trăn trối thiêng liêng, một sứ mệnh vô cùng cao quý, vô cùng to lớn và vô cùng nặng nề.

Công cuộc truyền giáo của Người, công việc rao giảng để dẫn đường chỉ lối cho mọi người về với Chúa Cha vẫn chưa hoàn tất. Còn rất nhiều người đang sống trong u mê, họ vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng của Chúa. Cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát. Đó không chỉ là sứ mạng của các tông đồ, của các giám mục, linh mục ngày nay, mà là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội của tất cả mọi người.

Qua mọi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục sứ mạng đó, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, những khi Giáo Hội bị bách hại dã man, các môn đệ của Chúa vẫn hiên ngang rao giảng, thực hiện sứ mạng mà Chúa Kitô đã giao phó. Giống cha Viana, họ cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Nước Trời, để minh chứng cho niềm tin của họ vào Đức Kitô.

Ngày lễ Chúa Lên Trời phụng vụ muốn cho chúng ta thấy nhóm mười một đã thực sự trưởng thành, và trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Nhưng họ còn phải chờ đón ơn Thánh Thần mới có thể ra đi tuyên chứng. Vì thế, lễ Chúa Lên Trời muốn nói lên sự kiện mới trong cuộc sống của Hội Thánh và của chúng ta hơn là một biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được đổi mới và lãnh nhận sứ mạng truyền giáo của Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy. Người truyền giáo là người dám loan truyền sự hiện diện của Chúa giữa nhân loại, nghĩa là cho mọi người nhìn thấy Chúa qua đời sống chứng nhân thường ngày. Thử hỏi, Giáo Hội Việt Nam, Khi Tin Mừng mới được gieo vãi vào Việt Nam, được phát triển mạnh mẽ, rồi qua bao triều bạo Chúa bắt bớ và giết chóc nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Những nhân chứng đó chính là hình ảnh Chúa Kitô hiện diện qua các thánh tử đạo. Còn ngày nay, trong một thế giới vô thần lại cần rất nhiều chứng nhân hơn nữa, cần những nhân chứng biết hy sinh đem Lời Chúa đến như dòng nước ấm rửa tan sự băng giá còn khô cứng trong lòng của họ. Nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi người chúng ta hãy kiên trì làm chứng bằng chính đời sống của mình.

Nhu cầu được biết Tin Mừng là khát vọng của nhiều người còn chưa biết Chúa, họ vẫn còn đang mò mẫm tìm đường. Vì thế "lời trăn trối" của Đức Giêsu hôm nay cần thiết hơn bao giờ hết. Đòi hỏi mỗi người hãy cấp bách đi gieo Lời Chúa, gieo Tin Mừng trên những cách đồng xa, những nơi mà hạt giống Tin Mừng chưa được gieo vãi, vì ở đó đang đói khát Tin Mừng, đang mong được thoát khỏi cảnh nô lệ tội lỗi của ma quỷ và của sự chết. Khát vọng đó là mảnh đất tươi tốt thúc bách chúng ta mau mắn thi hành sứ mạng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho thế giới này ngày cáng có nhiều người trẻ dám dấn thân, phục vụ trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen

ĐẤT TRỜI GIAO DUYÊN
Mt 28, 16 - 20

Tv 115 có viết "Trời là trời của Chúa, còn đất thì Chúa cho con cái loài người." (Tv 115,16 ). Như thế, trời là nơi Chúa ngự. Nhưng Thiên Chúa không chỉ ở trên trời mà Ngài còn yêu con người và thương trái đất đến nỗi Ngài đã sai Con Một của Ngài đến ở với con người. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16 ). Và từ khi Con Thiên Chúa đến đặt chân ở trái đất này và cắm lều ở đó thì Đất và Trời đã giao duyên.

Trái đất giờ đây cũng trở thành nơi Chúa ngự. Đất thấp đã mang dáng dấp của trời cao. Đây quả là mầu nhiệm của tình yêu, vượt quá sức hiểu biết của con người. Thiên Chúa "cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất ?" (Tv 113,6), một sự cúi mình vì yêu. Nhờ Đức Giêsu Kitô, con người nơi đất thấp đã được chạm đến trời cao và có thể bước vào trời cao. Quả là một huyền nhiệm của tình yêu! Thật chẳng có gì quá đáng khi nói: "Thiên Chúa xuống làm người để cho con người lên làm Chúa". Trong huyền nhiệm của tình yêu thì điều đó hoàn toàn có thể hiểu được!

Thật ra, Đất thấp chẳng xa lạ gì với Đức Giêsu Kitô vì nhờ Ngài mà nó được dựng nên. Nhưng từ khi Ngài đến ở với con người thì đất đã bắt đầu thành trời và mãi mãi thuộc về trời cao. Chính Đức Giêsu Kitô đã nói: "Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).

Tôi rất thích ngắm nhìn cảnh một đứa bé lên 2, lên 3 được cha của nó nâng nó lên và cho ngồi trên đôi vai của mình. Đứa bé thích thú và sung sướng vì cảm thấy mình cao bằng và thậm chí cao hơn cha của nó. Vì thương con của mình nên người cha cúi mình xuống để nâng nó lên. Thiên Chúa cũng hành động như thế và còn vượt xa hơn thế nhiều lần đối với con người chúng ta.

Tình yêu đã làm cho trời cao ngang bằng với đất thấp; đất trời đã giao duyên và nên một với nhau trong Đức Giêsu Kitô.

Hiểu như thế, chúng ta sẽ không còn thắc mắc hay lo buồn khi nói Chúa lên trời nữa. Chúa lên trời cũng đồng nghĩa với việc Chúa đang ở bên tôi. Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với chúng ta mà thôi. Trong Đức Giêsu Kitô, trời và đất là một. Đây quả là nguồn động viện và khích lệ quá lớn đối với đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Vì từng giây từng phút, chúng ta đang sống và đang hoạt động với Đức Giêsu Kitô.

Như vậy, nhiệm vụ xây dựng Quê hương Nước Trời của người Kitô hữu chính là công việc xây dựng quê hương trần thế này. Nếu trời là nơi Chúa ngự, là nơi chốn của tình yêu, của công lý, của hoà bình và hạnh phúc thì con người cũng phải có trách nhiệm biến trái đất này thành nơi ở của những điều thiện hảo đó. Như vậy, Nước Trời đâu còn là cái gì đó xa lạ hay là sản phẩm hoang tưởng của những con người ngây ngô như một số người vẫn nghĩ như thế.

Trời cao và đất thấp ở bên nhau khi mọi người Kitô hữu biết sống với nhau cách chân tình, biết chia sẻ cho tha nhân những gì mình có , biết chấp nhận hy sinh và phục vụ anh em mình.

Trời cao và đất thấp đã gần nhau khi con người không còn bị mê hoặc bởi những của cải lợi danh, không bị những đam mê của xác thịt kéo ghì mình lại hay không chùn bước trước những đau khổ và chết chóc trong đời thường.

Hãy làm chứng về Nước Trời và làm cho "Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời" bằng cuộc sống vui tươi và hạnh phúc ở đời này; hạnh phúc khi hy sinh, tự hiến, khi chịu thua thiệt, mất mát, khi chịu lãng quên . . . Chúng ta không thể làm chứng về thiên đàng bằng một cuộc sống u sầu buồn bã được.Thiên đàng mai sau đã chớm nở ngay trong cuộc sống hạnh phúc ở đời này.

Nhà tỉ phú Warren Buffett đã nói một câu rất chí lý: "Nếu bạn không thấy hạnh phúc là lỗi của bạn". Sự thật là như thế. Tôi chỉ có thể được hạnh phúc sống dời sau bên Chúa nếu tôi biết bắt đầu sống hạnh phúc bên Chúa ngay từ bây giờ, ngay từ đời này.

Lạy Chúa, xin cho con biết ngước mắt nhìn lên trời cao với một tâm hồn đơn sơ và tự do của người con cái Chúa. Xin đừng để những vất vả và chán chường của cuộc sống ở đời này làm con quên mất trời cao. Xin cũng đừng để những vẻ đẹp của trần gian với những cám dỗ và quyến rũ của nó làm cản bước tiến của con trên đường về với Chúa. Ước gì qua từng ngày sống hiện tại của con đây là một phản chiếu cho mọi người thấy Nước Chúa đang tỏ. Amen.

LỆNH LÊN ĐƯỜNG
Mt 28, 16 - 20

Lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về Trời: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần..." (Mt 28,19) thôi thúc các Tông đồ ra đi gieo rắc Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân. Đó chính là lệnh lên đường, mà mỗi người tín hữu, những kẻ tin vào Chúa Kitô phải thực hiện. Vì tin chính là làm chứng cho Chúa Kitô. Và nếu nhờ tin mà được rỗi, thì mọi tín hữu - không chỉ lo cho riêng mình - mà có trách nhiệm lo cho mọi người được phúc cứu độ.

Sứ mạng được giao phó cho mười một Tông đồ là: Giảng dạy để chuẫn bị cho mọi người (chứ không chỉ riêng người Do thái) lãnh nhận Phép Rửa tội, biến đổi họ trờ thành môn đệ Chúa Kitô, thành Kitô hữu và nhờ sống niềm tin vào Chúa Kitô mà được rỗi.

Kế thừa niềm tin của các Tông đồ, chúng ta cũng nhận lãnh sứ mạng lên đường, ra đi mở mang Nước Chúa, qua đời sống chứng tá của mình trong môi trường sống hằng ngày. "Ra khơi thả lưới" (x.Lc 5,4) như lời Chúa dạy!

Mỗi tín hữu cần phải ra đi khỏi chính con người của mình, để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, mà đây lại là hạnh phúc tôi hậu của đời người: hạnh phúc đời đời. Không ai lên thiên đàng một mình, vì như thế chưa phải là tin. Đức tin mà chúng ta có được là nhờ Hội Thánh trao ban và cùng với Hội Thánh chúng ta tin và làm cho người khác cũng được tin.

Ra đi còn có nghĩa chúng ta phải vượt xa hơn khỏi những lo toan đời thường cho gia đình mình, vật chất cũng như tinh thần, để đem Chúa đến cho những người chung quanh: những người thân cận, làng xóm, những người chúng ta gặp trong mối giao tiếp nghề nghiệp của mình... bằng mối quan tâm đến nhu cầu của những anh em nghèo khổ, bấtt hạnh; bằng những lời nói khích lệ, bao dung; bằng những việc làm đầy thiện ý; bằng chính cả con người sẳn sàng cống hiến, chia sẻ cho mọi người, vì Chúa.

Cuộc ra đi nào cũng cần phải chuẫn bị hành trang, đó là sức mạnh của ơn Chúa qua việc cầu nguyện, chuyên cần lãnh các Bí tích, sống lời Chúa dạy và đích đến làm cho mọi người, qua chúng ta, đón nhận đức tin mà được rỗi. Nếu rao giảng Lời Chúa, là nói điều Chúa muốn nói chứ không phải ý của chúng ta, thì cũng vậy đời sống người Kitô hữu phải là hình ảnh sống động đầy yêu thương, nhân hậu của Chúa Kitô, được khắc sâu trong tâm hồn chúng ta, toả lan ra bên ngoài.

Có ngày gieo, thì sẽ có ngày gặt. Xin cho chúng con được góp một cánh tay vào ngày mùa sau hết trong cõi đời đời.

KHÁT VỌNG LÊN TRỜI CAO
Mt 28, 16 - 20

Khát vọng lên trời cao hình thành nơi con người từ rất sớm. Lúc nhỏ ta thường ngước nhìn lên trời với ước mơ thật con trẻ. Ước mơ tầm thường nhưng thật lớn lao. Phải chi mình được lên trên trời để có thể nhìn thấy những gì trên trái đất. Ước vọng ấy cũng là khát vọng của bao con người. Cuộc trần nhiều khổ ải, đời sống còn lắm gian nan người ta còn mơ ước đến một cuộc sống trên cao tách biệt nơi trần thế, nơi đó con người được sống công bằng và hạnh phúc.

Con người coi trời là cõi xa xôi với nhiều điều bí nhiệm. Dù chưa rõ sinh hoạt nơi đó như thế nào nhưng con người vẫn tiếp tục ước mơ. Ước mơ một ngày tìm được lối thoát cho cuộc đời. Đói kém, đau buồn, giả dối, bất công mà con người phải đối diện hằng ngày làm cho cuộc sống thêm nặng trì, uể oải. Dù không hiểu rõ hạnh phúc trời cao là thế nào, có bền vững hay không nhưng con người vẫn tiếp tục hướng về trên cao.

Chúa về trời không phải Chúa bay lên khoảng không gian rộng lớn đang bao trùm quả đất. Trời không phải là chốn cao xanh, hay ở một nơi muôn trùng xa cách. Trời không phải là bầu khí quyển hay phần vũ trụ ở trên đầu ta. Theo cái nhìn Kitô giáo, trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, nói có tình yêu chân thực mà con người luôn kiếm tìm. Trời có nghĩa là thế giới thuộc về Thiên Chúa. Trời là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Hạnh phúc vĩnh cửu của con người là trở về với Thiên Chúa là Cha. Trước khi Chúa Giêsu về cùng Chúa Cha, Ngài hứa ban cho ta một chỗ trong nước Cha: "Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy".

Mừng Lễ Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Một con người tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, được sống bên Chúa. Chúa về trời là một khẳng định về niềm hy vọng của con người sẽ trở thành hiện thực.

Chúa Giêsu về trời không phải là một cuộc chia ly xa cách, không phải là cảnh tiễn đưa Chúa về phương trời xa lạ. Thăng thiên chỉ là sự thay đổi cách thức hiện diện. Ta không còn thấy Ngài, không còn đụng chạm tiếp xúc Ngài bằng các giác quan tự nhiên nhưng chúng ta vẫn gặp thấy Ngài trong niềm tin và lòng yêu mến. Tuy Chúa đi xa nhưng thật ra Ngài đang ở gần. Tuy Chúa vắng mặt nhưng Ngài đang hiện diện bên ta. Ngài hiện diện như Ngài nói: "Và đây Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)

Khát vọng về trời là khát vọng được lên cùng Thiên Chúa. Khát vọng ấy không phải chỉ ngước nhìn là đủ. Ngước nhìn là tâm thái của người đang khao khát, khao khát nên trọn vẹn khi con người được lên trời, cùng hưởng phúc với Chúa Giêsu. Trời không được xây dựng trên mây trên gió nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không là chốn mơ mộng viễn vong nhưng là đã bắt đầu ngay trong thực tế hiện tại. Sống và làm việc ở trần gian đó là một nhu cầu phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ nời trần thế đó là điều kiện để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới len trời. Nhiệm vụ đó là rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Đến đâu Ngài thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đó. Chúa Giêsu cũng đã sai các tông đồ hãy đi và làm những điều tốt đẹp cho con người.

Lời căn dặn sau cùng của Chúa Giêsu là phương cách để con người được về cùng Thiên Chúa: Aïnh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất. Giêrusalem là nơi các tông đồ đang ở. Giuđêa xa hơn một chút nhưng khá quen thuộc vì có nhiều đã tin Chúa. Samari tuy gần mà xa vì dân miền này biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài. Đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất.

Anh chị em thân mến, Chúa về trời và những lời Ngài dạy cho ta có cái nhìn đúng đắn hơn về trời và đất. Chúa về trời cho ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác; ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Tự bản chất, cuộc sống này không có tính cách vĩnh cửu. Dù muốn dù không thì mỗi chúng ta cũng sẽ phải từ giã nó để trở về quê trời, nơi Thiên Chúa ngự trị. Người khôn ngoan là người biết sắm sẵn và xây dựng tương lai đời minh không phải nơi trần thế nhưng ở quê trời.

Vâng nghe Lời Chúa, rao giảng lời Ngài và chu toàn trách nhiệm đời này là bước chuẩn bị tốt nhất cho một đời sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Mt 28, 16 - 20
Jos. Vinc. Ngọc Biển

Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!

Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.

1.     Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước

Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: "... tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi" (Ga 7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: "Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói:"Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17).

Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: "Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta"(Pl 3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: "trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm".

Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em".

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20).

Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất...

2.     Truyền giáo là bản chất của chúng ta

Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.

Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta:"Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! " (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.

Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.

Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp "Evangelii Nuntiandi", ngài nói: "Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân" (Thông điệp "Evangelii Nuntiandi" số 41).

Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!

Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: "Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em" (1Pr 3,15).

Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: "không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ"; hay "không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh". Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: "ngửi thấy mùi chiên".

Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen. 

TIẾP TỤC LOAN BÁO ƠN CỨU ĐỘ
Mt 28, 16 - 20
John Nguyễn

1. Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giê-su giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian - vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực - để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.

Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người (lúc ấy con người chưa có), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ. Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giê-su. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.

Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc? Đức Giê-su có làm được điều ấy không? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác?

2. Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giê-su mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài

Đức Giê-su đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Ki-tô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.

Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giê-su đã trăn trối cho các ông di chúc này: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giê-su, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Kitô hữu.

3. Đức Giê-su mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta

Sứ mạng của Đức Giê-su thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi. Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài. Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giê-su, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.

4. Hãy trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta

Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giê-su ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26.27; 9,6; Ep 4,24), là con cái Thiên Chúa (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4). Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.

Đức Giê-su muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.

Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em". Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giê-su truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau. Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giê-su. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giê-su ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giê-su trở thành hiện thực và cụ thể: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chúng ta hãy trở nên Giê-su hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình!

CẦU NGUYỆN
Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:
"Cách đây 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giê-su, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giê-su nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không?"

SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG
Mt 28, 16 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài ( Cv 1, 3 ).

Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa phục đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ ( Cv 1, 8 )

Rồi hôm nay, Chúa Phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội ( Mt 28, 16-20 ). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa Phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông ( Cv 1, 9-12 ).

I. TẠI SAO CÁC NGƯƠI CỨ ĐỨNG ĐÓ MÀ NHÌN LÊN TRỜI :
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:"...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" ( Ga 16, 6- 7 ). Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng ( Ga 14, 26; 15, 26-27 ).

Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận:

" Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".

Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông ( Cv 1, 3 ).

Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1, 6 ).

Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là " Anh em Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em " ( Mt 28, 16-20 ).

Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế

II.CHÚA VỀ TRỜI LÀ MỘT MỐI PHÚC LỚN LAO :
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho ccác tông đồ, cho Giáo Hội : " Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " ( Mt 28, 17-20 ).

Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.

Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình,nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa :" Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được...ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " ( Mt 5,13-16)

Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế
.

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Mt 28, 16 - 20
Sr Margareta Maria Hiền

Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn.

Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."

Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en=Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi.

VỀ GALILÊ
Mt 28, 16 - 20
Lm Augustine, S.J

Theo lệnh của Chúa Phục Sinh nhắn qua các phụ nữ đã gặp Ngài, các môn đệ nhanh chóng lên đường trở về Galilê. Đây là hành trình đức tin, bước đi trong vâng phục. Biến cố Thầy bị kết án tử đã khiến các ông thất vọng ê chề. Các môn đệ đã từng theo Thầy rong ruổi khắp mọi nẻo đường của xứ Galilê này. Tại đây, các ông từng chứng kiến bao điều kỳ diệu Thầy đã thực hiện: xua trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật, nhân bánh ra nhiều để nuôi cả đoàn dân đông đảo... Cũng chính nơi đây, các môn đệ đã từng nghe Thầy giảng dạy về Nước Trời, về lòng thương xót của Cha trên trời, về cách sống sao cho xứng với địa vị làm con cái Thiên Chúa. Thầy đi đến đâu, muôn người đều ngưỡng mộ quí mên Thầy. Điều này khiến các môn đệ rất đỗi tự hào, phấn chấn và hãnh diện.

Mọi vinh hoa trần thế người ta dâng cho Thầy mau chóng biến tan khi Thầy lên Giêrusalem nộp mình thọ nạn. Dù cho Thầy đã từng báo trước đến ba lần, nhưng các môn đệ không sao hiểu được biến cố đau thương đã xảy đến cho Thầy. Khi Thầy bị bắt, các môn đệ chống trả khá dữ dội, đến mức đổ máu (x.Mt 26,51). Thế nhưng, chẳng mấy chốc sau đó, tất cả các ông đều bỏ chạy thoát thân, để Thầy lại một mình. Ngay cả Phêrô, người đã từng tuyên bố: "dù cho mọi người có vấp ngã, riêng con đây sẽ chẳng bao giờ bỏ Thầy" (Mt 26,33), vậy mà nay lại chối Thầy đến ba lần (x.Mt 26,69-74). Cái chết thập giá đầy ô nhục của Thầy đã làm cho bao nhiêu kỳ vọng của các môn đệ thành mây khói. Còn hơn thế nữa, cái chết ấy đã làm cho các ông thành những kẻ phản Thầy.

Thầy đã chết nhưng nay đang sống. Qua các phụ nữ, Thầy nhắc lại cho các môn đệ lời Thầy đã nói trước trước khi chịu khổ nạn: "Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mt 26,32). Trở lại Galilê lần này, các môn đệ không lên đường đi vào quá khứ để tìm lại những kỷ niệm của một thời vang bóng, nhưng là để gặp lại Thầy, Đấng đã chiến thắng. Thầy đi trước để chờ đón và tỏ mình ra cho các môn đệ, bất chấp sự giới hạn và những đổ vỡ vừa xảy ra trong biến cố tử nạn của Thầy. Thầy đi bước trước trong tiến trình hoà giải với các môn đệ về mối tương quan vừa bị đổ vỡ. Bất chấp giữa các ông vẫn còn một số người hoài nghi, Thầy vẫn một lần nữa tuyển chọn và sai các ông đi trong tư cách là môn đệ của mình.

Mừng Chúa Thăng Thiên
Hôm nay, Giáo Hội mừng mầu nhiệm Chúa Thăng Thiên. Chúa về trời không có nghĩa Chúa rời bỏ trần thế, nhưng chỉ có nghĩa thay đổi cách thức hiện diện. Từ nay, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình, nhưng là hiện diện cách vô hình với con người. Mừng mầu nhiệm Chúa về trời cũng đồng nghĩa tuyên xưng sự hiện diện của Chúa nay vượt mọi giới hạn thời gian và không gian. Từ nay, Ngài hiện diện với con người ở mọi thời (mọi ngày), giữa muôn dân nước (x. Đn 7,14) vì Ngài có toàn quyền trên trời dưới đất.

Các môn đệ được Chúa Phục Sinh đưa vào mầu nhiệm Thiên Chúa hoà giải với con người. Các ông được Chúa Phục Sinh sai đi làm chứng cho chính mầu nhiệm này, mầu nhiệm mà các ông đã cảm nghiệm thật sâu xa nơi lòng mình: Tình yêu Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi con người. Giáo Hội mừng lễ Chúa Thăng Thiên cũng nhằm mục đích nhắc nhớ sứ mạng của mình, đó là làm chứng cho Chúa Phục Sinh và dẫn đưa muôn người về với Chúa. Là những môn đệ được Chúa Phục Sinh tuyển chọn qua Giếng Nước Rửa Tội, chúng ta hãy dùng chính đời sống vui tươi, tràn đầy hy vọng, thứ tha và yêu mến nhờ Chúa Giêsu để giới thiệu Chúa Phục Sinh cho người chưa biết Ngài. Chúa muốn dùng đời sống chứng tá của chúng ta để làm cho muôn dân thành môn đệ Ngài.

Từ đại tướng thành chiến sĩ Tin Mừng...
Câu chuyện dưới đây kể về một con người đã gặp Chúa Phục Sinh và trở thành môn đệ của Ngài.

Trong cuộc chiến Angiêri hồi năm 1961, Mạc Đăng Hưng (Philip Morion), lúc bấy giờ là một thiếu úy trẻ tuổi, đã tận mắt thấy một số tu sĩ công giáo cứu giúp cả những kháng chiến quân Fellag của Angiêri là những người, khoảnh khắc trước đó, đã tìm cách giết hại binh lính Pháp. Chàng sĩ quan trẻ tuổi này đã không thể hiểu nổi hành động từ bi của các tu sĩ. Đức tin của anh lâm vào tình trạng khủng hoảng. Anh muốn nổi loạn, loại bỏ niềm tin Kitô nơi mình. Nhưng rồi sau đó, nhờ suy nghĩ chín chắn, Mạc Đăng Hưng hiểu được ánh sáng đức tin chân thật và ngoan ngoãn để cho đức tin hướng dẫn cuộc đời binh nghiệp của mình.

Hồi tháng 3 năm 1993, trận chiến tại Bosnia-Herzêgovina đang leo thang mãnh liệt. Tại vùng Srêbrênica, lãnh thổ Hồi giáo, tuyết rơi phủ một màu trắng xoá - Srêbrênica đang bị quân Serbia vây hãm, tấn công và đe dọa tiêu diệt. Người dân sống trong đói khổ và âu lo trước viễn tượng bị tàn sát tập thể, nếu quân Serbia chiến thắng tràn vào đây. Cộng đồng quốc tế thì phân vân lưỡng lự trong khi giới ngoại giao tiến được một bước thì lùi lại hai bước. Thảm cảnh ghê rợn như đang chờ cơ hội ập xuống trên người dân nơi đây. Một sáng nọ, Đại tướng Mạc Đăng Hưng trong vị trí tổng tư lệnh lực lượng quân đội bảo hoà liên hiệp quốc (gọi tắt là IFO), đã đích thân đến Srêbrênica, dùng chính bản thân làm khiên thuẫn bảo vệ mạng sống người dân Hồi giáo ở đây. Nhờ hành động quả cảm này, vị tổng tư lệnh được mệnh danh là "ông tướng can trường" đó đã một mình đẩy lùi được cuộc tấn công của quân Serbia hung hãn.

Năm nay, tướng Mạc Đăng Hưng 63 tuổi. Hiện tại, ông đã về hưu và sống tại thủ đô Paris. Từ giã binh nghiệp, giờ đây ông trở thành một chiến sĩ của Thiên Chúa. Dưới sự linh hướng của cha sở họ đạo thánh Dương Minh (Saint Germain l" Auxerrois) tướng Mạc Đăng Hưng đào luyện một nhóm người trẻ để họ giúp đỡ các giới bị lỏ rơi ngoài lề xã hội tìm lại được niềm hy vọng. Nhóm người trẻ này sẽ là những đội quân cảm tử của vị đại tướng về hưu, để với vũ khí là Tin Mừng, họ sẽ tấn công vào các vùng ngoại ô thành phố.

Khi được mời chia sẻ tâm tình của mình, tướng Morion có lần đã tâm sự: "Tôi rất ngưỡng mộ thánh Máctin thành Tua, người lính đã xẻ đôi mảnh áo choàng chia cho một kẻ nghèo. Nếu Chúa muốn, tôi xin dành thời gian về hưu còn lại của tôi bây giờ để phục vụ Giáo Hội theo gương thánh Máctin. Bởi lẽ trong các thành phố cũng như trên toàn thế giới ngày nay, sự dữ đang toa rập hình thành nên một nền văn hoá chết chóc, đe dọa xoá bỏ mọi kết quả sự lành. Cuộc đời binh nghiệp và nhất là thảm cảnh Srêbrênica đã giúp tối biết trở thành hiện thân của hy vọng, và tôi ước mong chia sẻ niềm hy vọng ấy với các bạn trẻ tìm đến với tôi trong cuộc chiến chống nạn tuyệt vọng hiện nay giữa kinh đô ánh sáng Paris. Cùng với đội quân cảm tử đặc biệt này, tôi sẽ chĩa mũi giáo Tin Mừng tấn công các vùng ngoại ô man rợ, sẽ đi vào các bãi chiến trường thành phố, để rao giảng sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô là sứ điệp có khả năng chiến thắng sự chết.

LÊN TRỜI: ƯỚC MƠ CAO ĐẸP
Mt 28, 16 - 20
Lm Bùi Quang Tuấn CSsR

Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.

Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.

Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5"5 và nặng 140 cân Anh (pounds).

Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: "Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình."

"Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống", và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?

Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.

Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.

Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói "Chúa Giêsu lên trời" người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: "Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói "Lạy Cha chúng con ở trên trời"".

Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.

Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.

Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. "Lên thiên đàng" không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.

Thế nên khi nói "Chúa Giêu lên trời" có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.

Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn... Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.

Thế nhưng qua việc "lên trời", Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.

Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.

Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân", "các con là chứng nhân của Thầy". Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau."

Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.

CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Mt 28, 16 - 20
Sr Têrêsa Ngọc Bích

Một sinh viên T đến thăm một trại dưỡng nuôi người tàn tật và những người nghèo vô gia cư, T có dịp hớt tóc cho một trại viên gần 40 tuổi. Khi hay biết T là sinh viên thường đi ngang qua khu vực gia đình anh hiện đang sống, anh liền kể cho T về hoàn cảnh tuyệt vọng đáng thương của Anh.

Được sinh ra trong một gia đình gia giáo, anh là con đầu lòng đã được bố chăm sóc rất nghiêm khắc và rất mực yêu thương, cho đi học ở chủng viện. Ông hy vọng ngày nào đó, anh sẽ là niềm vinh dự cho gia đình. Nhưng trong dịp về nhànhân kỳ nghỉ hè, anh ta đã theo bạn bè cùng xóm quấy phá. Việc ấy gây tai tiếng đến nỗi bố anh vì thất vọng và vì danh dự đối với bà con lối xóm, nên đã chửi mắng, đánh đập rồi đuổi anh đi. Do lòng tự ái và thiếu suy nghĩ, anh đã bỏ nhà ra đi bất kể hậu quả ra sao. Anh đã trải qua biết bao thăng trầm và tự mưu sinh với đủ mọi thứ việc: bốc rác, phụ hồ, làm rẫy, làm ruộng, đồng thời làm quen với nhiều thói xấu trên đời.

Hơn 20 năm bỏ nhà ra đi, cũng có những giây phút anh cảm thấy trống vắng hướng về mái ấm gia đình và nhớ người bố ngày một già yếu. T giải thích cho anh về chữ "HIẾU" và khuyên anh dẹp bỏ tự ái, kiên trì hoà giải với bố và gia đình thay vì thất vọng oán trách. Anh ấy thật xúc động và ao ước ghé thăm bố vài ba tháng một lần.

Anh T đã kể lại với bố anh ta tất cả những điều anh ấy ao ước. Sau đó vài tuần trong dịp tới thăm trại, anh khoe với T rằng bố anh đã tới thăm, hai bố con ôm nhau khóc va cùng an ủi nhau trong nước mắt, anh đã nghiệm thấy tình cha con nồng nàn mãnh liệg. Như dụ ngôn "Người cha nhân hậu", anh T đã dùng chữ "Hiếu" trong giới răn thứ tư để thức tỉnh lương tâm của anh trại viên được hòa giải với bố và gia đình.

Đức Giêsu đã đến trần gian để dạy dỗ nhân loại, đã chịu chết và lên trời. Trước khi về trời, Ngài đã nhắc nhở các môn đệ và mỗi người chúng ta tiếp tục sứ mạng của Chúa ở trần gian: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8) và hãy "dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Mt 28,20)

Thế giới ngày nay đang bị đè bẹp dưới sức nặng của biết bao sự dữ. Một Kitô hữu không thể làm ngơ hoặc không hay biết những sự kiện đang xảy ra chung quanh mình: Những người đàn áp bất công, thất nghiệp, đói khổ và bị tàn phế...vì bạo động chiến tranh, luân lý suy đồi...

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách; những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu lời Chúa; những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà, nhưng còn tìm một con tim hiểu biết và yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối không chỉ trong thân xác nhưng còn trong tinh thần...

Bởi lẽ: "Điều mà các ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta".

QUÊ HƯƠNG ĐÍCH THỰC
Mt 28, 16 - 20
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng, OP.

Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay cho biết : Chúa Giêsu lên trời trước mặt nhiều môm đệ vào ngày thứ 40 sau phục sinh, tức là lần hiện ra cuối cùng với họ, và trong khoảng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa Giêsu không ở liền với các môn đệ mọi giây phút, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hiện ra thôi. Như thế, những lúc không hiện ra với các môn đệ thì Chúa ở đâu ? Thực ra, vấn đề thăng thiên của Chúa có thể ghi lại những điểm chính như sau :

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh nơi Chúa Cha ngay lập tức rồi. Nói cách khác, Chúa Giêsu phục sinh rồi lên trời ngay để ngự bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên, trong quãng thời gian 40 ngày, kể từ ngày phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, và vào lần cuối cùng, ngày thứ 40, Chúa hiện ra đàm đạo với các môn đệ, nhắn nhủ họ nhiều điều, rồi Ngài lên trời trước mắt họ. Từ đấy Ngài không còn hiện ra với họ như trước đó nữa cho tới ngày tận thế. Dầu sao ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta lưu ý đến ý nghĩa của mầu nhiệm Thăng Thiêng hơn là đến ngày giờ mầu nhiệm ấy xảy ra.

Mầu nhiệm Thăng Thiên nhắc nhở ít nhất hai điều : Thứ nhất, Chúa Giêsu về trời, nhưng ngài vẫn luôn hiện diện giữa chúng ta. Là những con người tại thế, bị ảnh hưởng và chi phối bởi giác quan, chỉ quen chấp nhận những gì giác quan kiểm chứng được, nên chúng ta dễ cảm thấy rằng : ra đi là mất mát, chia lìa là đau đớn kinh khủng, là chết đi một chút. Do đấy chúng ta cũng thường nghĩ rằng : Chúa Giêsu đã về trời, thế là mọi sự hết mất rồi. Nhưng sự thật không phải thế. Chúa Giêsu Phục Sinh đã lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Ngài lại vẫn còn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thăng Thiên chính là một cuộc chuyển tiếp từ hiện diện hữu hình sang hiện diện thiêng liêng. Nghĩa là từ đây Chúa Giêsu phục sinh chấm dứt cách hiện diện với các môn đệ khiến cho giác quan của họ kiểm nhận được, màhiện diện một cách thiêng liêng. Dấu hiệu của sự hiện diện này là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Đúng vậy, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đó cũng là ý nghĩa của câu Chúa khẳng định với các tông đồ : "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".

Điều thứ hai nhắc nhở chúng ta : Chúng ta đang sống ở trần gian, nhưng phải luôn hướng về trời. Những du khách có dịp đi du ngoạn ở miền bắc nước Tô Cách Lan, thường gặp thấy những đống đá chồng chất lên nhau. Những đống đá này hàm chứa một ý nghĩa lịch sử cho dân chúng miền đó. Đây là kỷ niệm của những người dân đã di cư đi nơi khác làm ăn. Người ta kể lại rằng : vì thiếu công ăn việc làm, dân chúng miền này phải tìm đến những nước công nghiệp như Canada, Uc hay Mỹ để tìm kế sinh nhai. Khi ra đi, họ thường nhặt một hòn đá của làng mình và đem theo cho đến khi bóng xóm làng chỉ còn là một chấm mờ ở đàng sau, họ dừng lại, đặt hòn đá xuống như một kỷ niệm yêu thương cuối cùng để lại cho quê hương của họ. Rồi hằng năm, vào dịp lễ thánh An-rê, bổn mạng nước Tô Cách Lan, người dân Tô Cách Lan trên khắp thế giới thường họp nhau lại để tưởng nhớ tới quê hương mình đã cách xa, và cũng để nhớ đến họ hàng thân thuộc còn ở lại quê nhà.

Bất cứ một người dân di cư nào cũng đã gói ghém trong hành trang của mình ít nhiều tình yêu quê hương sâu đậm. Người ta tìm ra hai nguyên nhân chính yếu đã là những động lực thúc đẩy các cuộc ra đi này, đó là một đời sống nghèo nàn, cơ cực, đói khát, với những điều kiện quá khắc khổ, không công ăn việc làm, không bảo đảm tương lai. Và một hấp lực lôi cuốn từ đàng trước, đó là một đời sống no đủ, sung túc hơn, với những hứa hẹn của một tương lai tươi sáng, bảo đảm và vững chắc hơn.

Người Kitô hữu cũng có thể được ví như những người dân di cư đó. Và cuộc ra đi của chúng ta là một cuộc hành hương về nước trời. Chúng ta cũng có một động lực thúc đẩy từ cuộc sống trần gian đầy vất vả này, và một hấp lực lôi cuốn của một quê hương hạnh phúc.

Sống ở đời này, ai ai cũng có những hy vọng. Chúng ta hy vọng về nước trời như là cái đích cuối cùng ở cuối con đường trần gian. Cuộc sống hôm nay nơi trần gian phải có một mục đích. Nếu sống hết ngày này qua ngày khác, phấn đấu lam lũ làm ăn, vất vả, cực khổ...chỉ để sống vậy thôi, chứ không biết mình sống để làm gì thì đời chúng ta thật là vô nghĩa và phi lý. Vậy chúng ta đã có mục đích sống cho đời mình chăng ? Mục đích đó là mục đích nào ? Thưa đó là nước trời. Vì vậy cuộc đời này là một cuộc hành hương về nước trời.

Ước gì từng hành động, từng suy nghĩ, từng gặp gỡ, từng hơi thở của chúng ta cũng đều là một đáp trả tích cực của chúng ta với lời mời gọi vào sự sống bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta đã có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Mt 28, 16 - 20
Lm Trần Thanh Sơn

Ngày 15/11/1998, linh mục Luchiano Benedicti thuộc hội Giáo Hoàng truyền giáo đã được các phiến quân Hồi giáo ở mạn nam Phi Luật Tân trả tự do sau đúng sáu mươi tám ngày bị bắt làm con tin. Trong một cuộc phỏng vấn liền sau đó, linh mục này cho báo chí biết ngài sẽ trở lại chính nơi mình đã bị bắt cóc. Ngài khẳng định rằng: "Sứ mệnh của tôi chưa hoàn tất" (Chu Văn, Truyện Tử Tế, tập 3, Làm chứng cho tình yêu, trang 15).

Khi nói đến "Sứ mạng của tôi chưa hoàn tất", Cha Lucchiano muốn nói đến sứ mạng làm chứng cho mọi người về tình yêu của Đức Giêsu, một tình yêu dám "chết vì người mình yêu". Sứ mạng này không phải do tự ý Cha Luchiano muốn làm hay thích làm, nhưng là do chính Đức Giêsu trước khi về trời đã trao cho cha Luchiano, và không chỉ cho cha Luchiano mà còn cho từng người chúng ta, cho tôi và quý ông bà anh chị em khi Ngài phán "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con".

1. Truyền giáo, bản chất của người Kitô hữu:
Sứ mệnh này đã được trao cho từng người chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa. Nhờ phép rửa, mỗi người chúng ta trở thành một chi thể trong Nhiệm Thể có Chúa Kitô là Đầu như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai "Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm Đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài". Vì là chi thể, mỗi người chúng ta có nhiệm vụ đóng góp phần của mình để làm cho cả thân thể ngày càng lớn lên và được sung mãn, nghĩa là làm cho Nước Chúa ngày càng được mở rộng, hay nói một cách khác, mỗi người chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Truyền giáo là một bổn phận đòi buộc của mọi tín hữu, của những người tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế, Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh về truyền giáo số 2 viết: "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo". Khi nói tự bản tính, Công đồng muốn nhấn mạnh với từng người chúng ta rằng, nếu không truyền giáo, thì không còn là Giáo Hội, mà Giáo Hội là do từng người chúng ta, do quý ông bà anh chị em và tôi làm nên. Do đó, nếu chúng ta không truyền giáo, thì chúng ta không còn lý do tồn tại, không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa nữa.

Chính vì muốn nhấn mạnh đến sứ mạng truyền giáo này của Giáo Hội, mà sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã hẹn gặp các Tông đồ, không phải tại Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh của người Do Thái, nhưng trên một ngọn núi tại xứ Galilê, một miền đất vẫn được coi là biểu trưng của dân ngoại (x. Mt 4, 12-23). Nếu như trước đây, Ngài đã sai các môn đệ chỉ đi rao giảng cho những chiên lạc nhà Israel (x. Mt 10, 5-6), thì giờ đây, sau khi Phục Sinh, cũng từ nơi miền đất Galilê ấy, và cũng từ chính Đức Giêsu, và cũng một lệnh lên đường ấy, nhưng được mở rộng hơn, không còn giới hạn: "Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất".

Lệnh truyền giáo được mở rộng vì giờ đây Đức Giêsu ấy sau khi từ cõi chết sống lại, đã được Thiên Chúa "đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa đã khiến mọi sự quy phục Người". Vâng, chính với quyền năng ấy mà Ngài sai các môn đệ và từng người chúng ta lên đường đến với muôn dân.

Như thế, đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe, nhìn bên ngoài là một đoạn kết thúc, nhưng thực ra, nó chưa kết thúc, nhưng là một đoạn khởi đầu. Khởi đầu một giai đoạn mới trong đời sống Giáo Hội, giai đoạn sống và loan truyền niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Và cũng trong tinh thần đó, Giáo Hội đã chọn ngày lễ Thăng Thiên hôm nay làm ngày "Truyền Thông Thế Giới". Chúng ta cần thông truyền cho cả thế giới và từng người trong thế giới hôm nay biết về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại và tất cả những ai tin nơi Ngài sẽ nhận được sự sống đời đời.

2. Việc truyền giáo trong thế giới hôm nay:
Khi nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến công việc của các nhà Thừa Sai, của các linh mục, tu sĩ, của những người ra đi đến những miền đất xa xôi nào đó, để rao giảng Tin mừng. Và như thế, vô tình, chúng ta đã tách bổn phận truyền giáo ra khỏi đời sống hàng ngày của chúng ta.

Suy nghĩ như thế là chưa đủ. Truyền giáo, trước hết, là bổn phận của từng người chúng ta và đối tượng của việc truyền giáo vừa là những người chưa tin, nhưng cũng lại là chính chúng ta.

Truyền giáo là làm cho mọi người trở thành môn đệ của Đức Kitô, làm cho Tin mừng của Đức Kitô thấm nhập vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như thế, việc truyền giáo không chỉ là nói về Thiên Chúa, về Đức Kitô, nhưng quan trọng hơn, đó là dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô bằng chính đời sống chứng tá của từng người chúng ta. Đó là điều mà chính Đấng Phục Sinh trước khi về Trời đã căn dặn các tông đồ và cũng là với tôi và quý ông bà anh chị em: "Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy".

Tuy nhiên, để có thể làm chứng cho Đức Kitô, và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài, tôi thiết nghĩ, từng người chúng ta, tôi và quý ông bà anh chị em cần có những cảm nghiệm riêng tư của mình về Đức Kitô, cần nhận ra được tình yêu của Đức Kitô đang bao phủ cuộc đời mình, cần có một xác tín về sự quan phòng của Ngài trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta cần có một cảm nghiệm về sự bình an và niềm vui của một người đang có Chúa ở cùng. Có được như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, và dạy họ tuân giữ các giới luật của Đức Giêsu, mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một giới luật là tình yêu. Khi nói về việc rao giảng Tin mừng trong thế giới hôm nay, thì chúng ta không thể không nhắc đến Đức Cố Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II. Với một đức tin chân thật và một cuộc sống luôn gắn bó với Chúa trong lời cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã không ngần ngại khi phải lên tiếng xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ, nhưng cũng thật kiên quyết khi phải lên tiếng để bảo vệ các chân lý của Thiên Chúa. Ngay khi nghe tin Đức Thánh Cha vừa qua đời, Thủ Tướng nước Anh, Tony Blair đã phát biểu: "Ngay cả nếu bạn không phải Công Giáo, hay không phải là Kitô hữu, thậm chí không có chút niềm tin nào, điều mà người ta có thể thấy nơi Đức Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II là một đức tin chân thật và sâu sắc về tinh thần, một tấm gương sáng chói cho thấy đức tin là gì".

Như thế, để việc truyền giáo trong thế giới hôm nay thực sự trở nên sống động và hiệu quả, thì lời rao giảng của chuùng ta cần phải đi đôi với chính đời sống chứng nhân của chúng ta. Thí dụ, cùng sống trong cùng một khu xóm, nhưng nếu mọi người thấy quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến thăm nom, an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; hay thấy quý bà không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; hay thấy các bạn trẻ trong giáo xứ sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ học hành, sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ, nhiệt thành với công việc chung ... thì hẳn những người xung quanh phải đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta sống được như vậy ở giữa đời? Và khi đi tìm câu trả lời, họ sẽ tìm đến được với Đức Kitô, Đấng đã dạy chúng ta sống như vậy, thì đó quả là một lời rao giảng hiệu nghiệm nhất, và từng người chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài vẫn đang hiện diện và ở giữa nhân loại, nhất là trong bí tích Thánh Thể. Chớ gì nhờ việc hiệp lễ, mỗi người chúng ta thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta, để đến lượt chúng ta sống và làm cho những người chưa tin Chúa, nhận ra và tin theo Ngài. Amen.

ĐIỂM HẸN GALILÊ
Mt 28, 16 - 20
Sr Mai An Linh, OP

Cảnh cuối cùng của Tin mừng Mathêu cho thấy các môn đệ đã đi Galilê như lệnh của Thiên Thần (Mt.28,7) và lệnh của Đức Giêsu truyền qua mấy phụ nữ (c.20) và Đức Giêsu hiện ra với các ông không phải là trình thuật Phục Sinh mà có một vai trò khác, đó là dẫn chúng ta sang " thời gian của Hội Thánh", Đấng được tôn vinh - Đấng quyền uy trên toàn thế giới, sai môn đệ đi với những lời căn dặn rõ ràng và hứa ở với họ ở với họ cho đến tận thế.

Điểm hẹn gặp lần cuối, giữa Chúa Giêsu và các tông đồ không phải ở Giêrusalem như Luca, nhưng là ở Galilê. Mathêu muốn khẳng định rằng : Dân Do Thái bất trung, không tiếp nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, nên Tin Mừng được rao giảng cho dân ngoại mà Galilê là biểu tượng.

Đức Giêsu khải hoàn, Đức Giêsu sống lại vẫn là Đức Giêsu của Galilê, một Con Người qua hai giai đoạn : rao giảng và được tôn vinh. Chúng ta cũng thế, cuộc đời trần thế và cuộc đời vinh quang mai sau. Thế nhưng cuộc đời chúng ta cái gì nối kết hai quãng đời ấy? - Đó là Tình Yêu. Khi vào vương quốc của Thiền Chúa rồi, chúng ta vẫn tiếp tục điều mà chúng ta đã thực tập dưới thế, đó là yêu thương. Vậy hãy đặt niềm hi vọng nơi Đức Kitô Thăng Thiên rằng : Chúng ta sẽ được cùng ngự trị với Ngài nếu chúng ta biết bước theo Ngài khắp nơi Ngài đã đi qua.

Khi đến Galilê Chúa Giêsu đến gặp các tông đồ như đã hẹn và Ngài cũng không ngừng đến với chúng ta, gặp gỡ chúng ta qua các nẻo đường đời của chúng ta. Nếu Ngài phải quay về trời, thân xác xa cách chúng ta, nhưng chính là để từ nay ở gần chúng ta hơn và hiện diện với chúng ta trong mọi lúc. Phần chúng ta phải sống với Ngài mật thiết, vì Ngài biết chúng ta rất rõ, rõ hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt nỗi lòng thầm kín của chúng ta, Ngài hiểu rõ nỗi khao khát ước vọng của chúng ta và mong chúng ta. Chúng ta hãy phó thác trọn vẹn cho Ngài rồi hãy thực hiện điều Ngài chờ đợi nơi chúng ta là làm sứ giả rao giảng Tin mừng cho mọi người bằng chính cuộc đời của chúng ta.

Khi các môn đệ tới gặp Chúa Giêsu, các ông " phục lạy Ngài". Sự kiện phục lạy chỉ được dùng cho những ai đã nhận biết phẩm vị của Đức Giêsu và nhìn nhận phẩm vị này qua cử chỉ đó, như các đạo sĩ trong câu chuyện thời thơ ấu của Chúa Giêsu ( Mt.2,8-11), người phong cùi được sạch ( Mt.6,8), các môn đệ trên thuyền (Mt.14,33) và người đàn bà xứ Canaan ( Mt.15,25). Lòng tôn kính của các môn đệ quả có tính cách sùng bái tôn giáo và phụng vụ. Nó diễn tả trước những gì sẽ được phát biểu trong lời tuyên bố về quyền năng của Đức Giêsu ở câu 18b.

Ngài đã toàn thắng sự chết, và cả chúng ta nữa, chúng ta cũng tham dự vào sự chiến thắng ấy. Trận chiến quyết định đã xong rồi, chỉ còn những trận lẻ tẻ trong từng tâm hồn và cuộc sống của mỗi người. Chúng ta đã thành kẻ chiến thắng khi liên kết với Đức Kitô. Vậy đừng để bại trận nhục nhã ê chề nữa khi cố tình phạm tội.

Trước khi từ biệt các môn đệ để về trời, Chúa Giêsu nhắn nhủ các ông phải làm cho muôn dân đi vào mối tương quan với Chúa Giêsu, gắn bó mật thiết với Ngài như các ông đã từng có những tương quan ấy. Các ông phải rao giảng về Đức Kitô cho những người chưa biết để họ tin vào Ngài. Đồng thời phải dậy dỗ, giáo huấn cho những người đã tin.

Làm công việc này các ông không phải làm một mình mà " Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Ở với các ông không có nghĩa là sự hiện diện bằng xương bằng thịt, mà Chúa Giêsu thay đổi cách hiện diện, nghĩa là sau khi Phục Sinh thân xác Ngài không còn lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài vẫn đang sống, đang tác động một cách có ý thức trên chúng ta, chúng ta cảm thấy sức mạnh Ngài, chính Ngài hoạt động trong chúng ta, trong thế giới. Chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không ?

Vì thế, lời hứa của Chúa Giêsu qủa là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta, Chúa ở với chúng ta trong những giờ phút khó khăn thử thách. Ngài sẽ là sức mạnh nâng đỡ chúng ta và Chúa đã phù trì thì ai thắng nổi ? Sự xác tín ấy phải là nguồn vui cho cuộc đời ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa lên trời là dấu chứng chắc chắn của niềm hi vọng, nhà chúng con ở trên trời. Chúa đi và chờ đón chúng con. Xin cho chúng con ngay trong cuộc sống hiện tạibi khao khát những sự trên trời và luôn mặc lấy Chúa Kitô vinh quang.Mai an Linh OP.

XÂY DỰNG NƯỚC TRỜI
Mt 28, 16 - 20
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúng ta vừa nghe những câu cuối cùng trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đây là những lời nói cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã trần gian về trời. Nên có tầm quan trọng rất lớn. Chính vì thế Chúa Giêsu triệu tập các môn đệ lên một ngọn núi cao. Trong Tin mừng, những biến cố quan trọng bao giờ cũng diễn ra trên ngọn núi cao. Chúa ký kết giao ước với dân Do thái trên núi. Chúa giảng bài giảng đầu tiên trên núi. Chúa biến hình trên núi. Chúa chịu chết trên núi. Và hôm nay Chúa trao sứ điệp cuối cùng trên núi. Sứ điệp này thật quan trọng vì cho ta hiểu được định mệnh của con người, hiểu được sự thật về Nước Trời và hướng dẫn đời sống của ta trên trần gian.

Sứ điệp đó cho thấy định mệnh con người.
Chúa Giêsu nói : "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất". Khi bị treo trên thánh giá, không một mảnh vải che thân, ai cũng nghĩ là Chúa Giêsu đã mất tất cả. Nhưng hôm nay khi về trời, Chúa Giêsu được tất cả. Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã từ chối cơn cám dỗ thờ lạy ma quỉ nhằm được lợi lộc trần gian. Thì nay Đức Chúa Cha đem tất cả đặt dưới chân Người. Là người đầu tiên về trời, Chúa Giêsu mở cho ta một chân trời hi vọng. Định mệnh con người không bị tàn lụi đi theo thân xác ở trần gian, nhưng triển nở đến vô tận trên Nước Trời. Định mệnh con người không chìm trong nhục nhằn thống khổ, nhưng sẽ trổi vượt trong vinh quang trên Nước Trời. Định mệnh con người không phải chịu giam cầm trong số phận xác đất vật hèn ngang hàng với cỏ cây súc vật, nhưng sẽ được nâng lên ngang hàng với các bậc thần thánh trên Nước Trời.

Sứ điệp đó cho thấy sự thật về Nước Trời.
Chúa Giêsu nói : "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Theo quan niệm dân gian ta thường phân chia trời với đất. Trời cách xa đất ngàn trùng. Đất chẳng bao giờ với được tới trời. Trời chẳng bao giờ có thể cúi xuống tới đất. Nhưng với lời Chúa Giêsu hôm nay, ta thấy trời đất không cách xa nhau. Chúa Giêsu về trời nhưng vẫn ở bên cạnh ta mọi ngày mọi giờ cho đến tận thế. Chúa Giêsu không nói Chúa sẽ lên trời, nhưng Chúa thường nói Người sẽ về với Chúa Cha. Nước Trời chính là sự sống trong Chúa Cha, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Nước Trời chính là sự sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Nước Trời là được hưởng hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa. Như thế Nước Trời là một trạng thái chứ không phải một nơi chốn. Ai sống trong tình yêu Thiên Chúa thì đã ở trong Nước Trời rồi.

Sứ điệp đó cho thấy sứ mạng của người môn đệ.
Chính vì không cách biệt mà trời và đất không đối lập nhau. Trời không tách rời đất. Đất không đối lập với trời. Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ, trên mặt đất. Trái đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Đó là sứ mạng của người môn đệ. Đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Xây dựng bằng cách nào. Thưa bằng "dậy cho họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em". Những điều Chúa Giêsu dậy đã được tóm tắt trong điều răn mới : "Thầy truyền cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Điều răn mới này thay thế mọi điều răn cũ. Như thế sứ mạng của người môn đệ Chúa là sống yêu thương, là làm cho mọi người sống yêu thương. Khi mọi người biết yêu thương nhau như Chúa yêu thương ta, Nước Trời đã hiện diện.

Hôm nay mừng lễ Chúa Giêsu về trời, ta hiểu rằng định mệnh của chúng ta thật cao quí vì không kết thúc ở trần gian mà còn tiếp tục trên Nước Trời. Ta hiểu rằng Trời và Đất không cách xa đối lập nhau, nhưng Nước Trời phải được xây dựng ngay từ bây giờ trên mặt đất và Trái Đất Chúa ban cho để ta xây dựng thành Nước Trời. Ta hiểu rằng sứ mạng của ta phải nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, sống yêu thương và làm cho mọi người sống trong yêu thương. Khi ta hoàn thành sứ mạng như Chúa Giêsu ta sẽ được chung phần hạnh phúc với Chúa.

Lạy Chúa xin nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI
Mt 28, 16 - 20
Pm. Cao Huy Hoàng

Vừa xong giờ kinh gia đình tối thứ tư, với chuỗi hạt mân côi Năm Sự Mừng, Cu Út lớp 3, hỏi Mẹ:
-"Mẹ ơi, "ái mộ những sự trên trời" là gì thế, Mẹ".
Mẹ vui mừng trả lời con:
- " Ái là Yêu, Mộ là mến... là yêu mến những sự trên trời đấy con à"
-"Những sự trên trời là sự gì?"
Mẹ của Cu Út lớ ngớ, không biết phải trả lời con thế nào. Mẹ nhớ ra: "Thứ hai thì gẩm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời". Mẹ nói:
-"Những sự trên trời là những thứ mà Chúa Giêsu Lên Trời chuẩn bị cho mình đó con à.
-"Chúa Lên Trời là lên làm sao? Chuẩn bị cho mình thứ gì?"
-"Là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, chuẩn bị cho mình về với Chúa Cha..."
Cu Út không bằng lòng:
-"Con không hiểu gì cả. Về với Chúa Cha? Về đâu"
...........
Một em bé không cố ý làm bài kiểm tra giáo lý mẹ mình, nhưng quả thật, để trả lời cho bé hiểu về việc Chúa Giêsu Lên Trời và chuẩn bị cho chúng ta về với Chúa Cha thì không dễ dàng chút nào. Mẹ có thể hiểu được cả một cuộc đời mầu nhiệm của Chúa Giêsu với niềm tin và sự trải nghiệm trong hành trình đức tin của mình, nhưng để giải thích cho một tâm hồn non nớt thì không biết phải đi từ đâu...

Những sự ở trên trời, chỉ có người ở trên trời mới biết. Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu... cuộc sống ấy ở trong Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.

Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến " Người được cất lên Ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galile, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời" (Cv 1,9-11). Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế... Việc "về với Cha", Chúa Giêsu đã nói trước tới biến cố nầy với bà Maria Madalena sau khi sống lại: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17). Như vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục sinh ở trần gian, đến việc "Về Với Thiên Chúa Cha" trong đời sống Thiên Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền, là Vua Vũ Trụ: "Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: "Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh" (Ga 1,22).

Như thế, giải thích của người Mẹ trên đây với cậu con trai út chắc là không sai lạc giáo lý: Lên trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và giải thích được như thế, chắc chắn người Mẹ nầy cũng đã kết hiệp với Chúa Giêsu cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp dẫn của "những sự dưới đất"đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.

Thực tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong lời mời gọi của Tin Mừng! Buổi sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ. Tưởng là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo, hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc "phải làm". Ngài không soi sáng cho chúng ta việc "thích làm". Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh "cúi xin Chúa sáng soi" trước những công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho "những sự dưới đất" được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về "những sự trên trời", "ái mộ những sự trên trời", chắc ăn hơn.

Và chỉ khi nào thực sự "ái mộ những sự ở trên trời", thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu : "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,18-20)

Đây không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha: qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa. "Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" đồng nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất. Thực vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát tục và gương sống "ái mộ những sự trên trời" đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn "dính bén với các sự dưới đất" mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay. Có thể nói việc "dính bén với các sự dưới đất" của một chứng nhân gây nên việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi người.

Mừng Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của mình trong cuộc đời.

Mẹ Maria chắc chắn là mẫu gương "ái mộ những sự trên trời" hơn cả và loài người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương "chứng nhân Chúa Kitô" thật sống động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên Chúa cho mọi người. A men.

CHÚA VỀ TRỜI
Mt 28, 16 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Lễ Chúa về trời là một trong những lễ quan trọng nhất của năm phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo. Đây là lý do đặc biệt để chúng ta mừng lễ này một cách trọng thể.Chúng ta có thể xem lễ này như một cuộc chuyền lửa, một cuộc tiếp sức trong cuộc chạy đua giữa các vận động viên để đem lửa châm vào ngọn lửa chính ở sân vận động suốt trong cuộc tranh tài. Đây là cuộc chuyền đức tin, một hoạt động truyền giáo để loan truyền Đức Kitô phục sinh cho những người khác.

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài đã được tôn vinh nơi Chúa Cha. Nhưng để củng cố lòng tin còn non yếu của các môn đệ, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Nói cách khác, trong suốt 40 ngày sau lễ Phục Sinh, Chúa Giêsu vẫn thường xuyên hiện diện với các môn đệ để các môn đệ yên lòng và để Ngài nhắc nhở, trấn an, dạy dỗ các môn đệ trước khi Chúa sai các môn đệ đi khắp tứ phương thiên hạ để rao giảng Tin Mừng. Vâng, vào ngày thứ 40, Chúa đã về trời trước sự chứng kiến của các môn đệ và rồi Ngài không còn hiện ra với các môn đệ như trước đó nữa cho tới ngày tận cùng thế giới. Ngày Lễ Thăng Thiên, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm Thăng Thiên hơn là ngày giờ xẩy ra việc Chúa về trời.

Mầu nhiệm Chúa về trời cho chúng ta hiểu rằng Chúa về trời nhưng Ngài vẫn hiện diện một cách thiêng liêng giữa thế giới, giữa nhân loại, giữa chúng ta. Về trời nghĩa là Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt như xưa, nên mắt phàm các môn đệ và chúng ta không thể nhìn thấy Ngài. Chúa đã hứa với các môn đệ: " Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế ". Dấu hiệu Chúa hiện diện là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các môn đệ và đây cũng là dấu chỉ Ngài đang ở giữa chúng ta, ở trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Và mầu nhiệm Chúa về trời cũng nhắc nhở chúng ta, nhắc nhở Giáo Hội rằng tuy còn đang trên cuộc hành trình đức tin nhưng mọi người hãy luôn hướng về trời, hướng về cái đích cuối cùng là Quê Trời nơi hạnh phúc vì chúng ta được gặp gỡ Chúa và sống trong Chúa.

Ngày hôm nay, trước khi khuất mặt các môn đệ để về trời, Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho các Ông: " Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ". Lệnh truyền ấy và bài sai các môn đệ đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu Phục Sinh, đồng thời chứng kiến việc Chúa vinh thăng về trời các môn đệ không thể nào im hơi lặng tiếng. Họ đã xác quyết mạnh mẽ:" Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo trên cây gỗ...và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israen ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó, chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa ban cho những ai vâng phục Người ". Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính "...

Làm chứng cho Chúa phục sinh, tất cả các môn đệ đều đổ máu đào tuyên xưng lòng trung thành của mình vào Đấng đã chết và sống lại. Chúng ta cũng được kêu mời làm chứng cho Chúa sống lại bằng chính cuộc sống tốt lành, gương mẫu của chúng ta. Chúng ta về trời với Chúa bằng hy sinh, kiên nhẫn và trung thành của chúng ta đối với Chúa Giêsu Kitô phục sinh.

Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu phục sinh đã chuyền lửa, chuyền đức tin và chuyền cây gậy tượng trưng công việc truyền giáo cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục làm công việc ấy cho Chúa Giêsu phục sinh. Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa sống lại bằng đức tin và bằng cách mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta.

" Các con là muối ướp cho đời, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì mà làm cho mặn lại được; nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là thành phố xây trên đồi nên không thể dấu được...

Cũng thế, ánh sáng chúng con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời "
( Mt 5, 13-16 ).

CHÚA VỀ TRỜI
Mt 28, 16 - 20
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa về trời có lẽ đã là một việc quá quen thuộc với những môn đệ của Chúa. Cụm từ Chúa Thăng Thiên hay về với Thiên Chúa Cha, vẫn là cụm từ người Công giáo học thuộc lòng khi học giáo lý. Trời có vẻ xa lạ với con người, với chúng ta và đất dường như gần gũi chúng ta hơn bởi lẽ chúng ta đang sống trên trái đất, đang sống trong thế giới này.Tuy nhiên, Chúa về trời để dọn chỗ cho các môn đệ, dọn chỗ cho chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó với Ngài.

Tin Mừng của Thánh Matthêu trong trích đoạn ngày hôm nay, đoan kết câu 20 ( Mt 28, 20 ) có viết :" ...Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ". Đúng là một lời đầy an ủi, đầy tin tưởng cho các môn đệ, cho chúng ta, cho nhân loại vì rằng Chúa về với Chúa Cha nhưng Ngài vẫn hiện diện với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Ngài về trời, nhưng Ngài xin Chúa Cha sai Thánh Thần, để Thánh Thần ở với Giáo Hội, ở với mỗi người, bảo vệ, hướng dẫn Giáo Hội và mọi người. Chúa Phục Sinh đã về với Chúa Cha, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn hiện ra nhiều la62mn với các môn đệ, với những người thân thương để minh chứng Ngài đã sống lại thật và hôm nay ngày thứ 40, Chúa Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ, nhắn nhủ, dặn dò, khích lệ họ nhiều điều, rồi Ngài Thăng Thiên trước mặt các môn đệ. Đây là lần chót Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ, các môn đệ sẽ không còn thấy Ngài hiện diện như các lần trước nữa cho đến ngày tận thế. Tuy nhiên, hôm nay Giáo Hội muốn nhân loại, con người, chúng ta nhớ tới ý nghĩa mầu nhiệm Thăng Thiên hơn là nhớ tới ngày giờ mầu nhiệm Chúa lên trời xẩy ra.

Mầu nhiệm Chúa về trời nhắc nhở chúng ta hai điều quan trọng là Chúa về trời nhưng Chúa vẫn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho tới tận thế. Bởi vì về trời có nghĩa là Chúa Phục Sinh chuyển đổi từ sự có mặt hữu hình đến việc có mặt một cách thiêng liêng. Chúa Phục sinh từ đây không cón hiện diện cách như xưa khiến giác quan hay nói một cách khác con mắt thể xác không còn nhận ra Ngài như trước kia Ngài có mặt. Dấu hiệu để các môn đệ nhận ra Chúa Phục sinh là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ. Chúa Phục sinh hiện diện nơi các tông đồ, môn đệ, nơi chúng ta, trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đúng như lời nói ! Đấng Phù Trợ đến từ nơi Chúa Cha và Ngài khẳng định với các tông đồ :" Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ".

Điều khác nữa, Chúa Thiên, nhắc nhớ chúng ta phải luôn hướng về trời. Hướng về trời, có nghĩa là chúng ta những lữ hành đang đi trong cuộc hành trình đức tin tiến về trời. Chúng ta phải phấn đấu, quảng đại, hy sinh để kiên cường tiến về nước trời. Cuộc đời hôm nay nhiều vất vả, nhiều thử thách khó khăn, nhưng với niềm tin chúng ta có một sức thu hút, thúc đẩy chúng ta đạt tới quê hương vĩnh cửu, quê hương hạnh phúc là Nước Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống nơi trần gian, trên thế giới. Gian trần hay thế giới chỉ là quê hương tạm bợ, quê hương mau qua vv...Đích điểm cuối cùng chúng ta là quê trời. Do đó, chúng ta ý thức và sống tốt lành với những ngày tạm bợ ở trần gian để chúng ta tiến về Nước Thiên Đàng, Nước Thiên Chúa.

Chúa Giêsu khi nói với các môn đệ ở Galilê trên một ngọn núi :" Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh THần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em...". Chúa truyền lệnh cho các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Người đi truyền giáo, loan báo Nước Trời, nhưng điều quan trọng và hết sức an ủi, củng cố niềm tin, đó là Chúa hứa ở cùng các môn đệ luôn mãi.

Các tông đồ vững tin, không còn lo âu sợ hãi vì Chúa phục sinh luôn ở với các Ngài, luôn ở trong các Ngài. Đặc biệt Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các tông đồ để các Ngài có sức mạnh, can đảm làm chứng cho Chúa Phục sinh.

Đoạn Sách Công Vụ Tông Đồ 1, 11 viết :" Sao các Ông cứ đứng mải miết nhìn trời ? ". Các Tông Đồ đang nuối tiếc Thầy mình.Tuy vậy, các Ngài ý thức sứ mạng cao cả :" Loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Phục Sinh" còn đang chờ đợi các Ngài. Các Ngài đã xuống núi, trở về với đời thường và làm sứ mạng Chúa Phục sinh trao phó. Chúng ta đang sống ở trần gian, chúng ta cũng đang có sứ mạng lớn lao là rao giảng Tin Mừng. Làm tròn sứ mạng làm chứng cho Chúa Phục Sinh và loan báo Tin mừng cho Chúa nhưng đồng thời cũng luôn hướng về trời để quyết tâm về trời với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ Thiên Đàng là mục đích cuối cùng chúng con đang vươn tới.Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con hiểu rằng trần gian là tạm bợ, Nước trời là Quê hương thật, Quê hương vĩnh cửu chúng con phải vươn tới. Amen.

VỀ TRỜI
Mt 28, 16 - 20
Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mừng lễ Chúa Lên Trời, Về Trời hay Thăng Thiên, ý nghĩa là Chúa Giêsu Kitô đã được cất nhắc lên và không còn xuất hiện hiển nhiên với các tông đồ nữa. Theo kiểu nói bình dân có hình tượng đi lên, đi xuống và ngự bên phải, bên trái, để mọi người dễ hiểu. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mệnh tại thế: Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy, Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng, Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa (Tđcv 1, 3). Chúa Giêsu đã xuống trần gian sinh sống trong khoảng thời gian ba mươi ba năm. Chúa ra rao giảng Tin mừng Cứu độ, chịu khổ hình thập giá, chết và sống lại. Sau khi sống lại, Chúa lưu lại trần gian một khoảng thời gian ngắn để dạy dỗ, an ủi và sai phái các tông đồ đi ra làm nhân chứng tin mừng. Rồi Chúa lên nơi đã ở trước và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trí khôn của chúng ta chỉ có thể hiểu được các sự kiện gắn liền với thời gian và không gian. Đôi khi chúng ta thắc mắc, lên trời là lên nơi nào và ở đâu? Xa hay gần. Bầu trời thì bao la như không cùng.

Thánh Luca, tác giả sách Tông Đồ Công Vụ làm sáng tỏ một chút: Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ người khuất mắt các ông (Tđcv 1, 9). Chúa Giêsu được cất lên, mây che phủ và khuất mắt các tông đồ. Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện với các tông đồ theo thể thức khác. Chúa không còn hiện ra cách nhãn tiền để đàm đạo, dậy dỗ hoặc ăn uống với các ông như trước nữa. Chúa sẽ hiện diện linh thiêng qua các việc cử hành phụng vụ, các Bí tích và hiện diện nơi cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện với lịch sử của một dân tộc được chọn lựa. Có khởi đầu, diễn tiến và sẽ thành tựu trong thời gian và không gian. Các sự kiện lịch sử về ơn cứu độ được in ghi rất cụ thể và gắn kết với một dòng dõi, nơi một đất nước xứ sở và dưới thời một vua chúa, quan quyền.

Sứ mệnh cứu thế của Chúa Kitô đã được chuẩn bị rất lâu dài qua cả ngàn năm. Thiên Chúa Cha đã tuyển chọn một người, một gia đình sinh xôi nẩy nở thành một bộ lạc và rồi trở thành một dân tộc để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế. Các tiên tri đã loan báo và hướng dẫn dân chúng về Đấng Xức Dầu sẽ xuất hiện để ban ơn cứu độ giải thoát. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoặch của Người qua Đức Kitô. Ngài là trung gian của vũ trụ vạn vật. Đây là một biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu cao siêu và linh thiêng đi vào cụ thể nơi lòng người. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng hạ thân làm người, gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Giêsu đã trải nghiệm một cuộc đời như mỗi người chúng ta. Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta về tất cả mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa vô hình và vô biên đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời trong cách thế và ngôn ngữ giới hạn của con người qua niềm tin tôn giáo, văn hóa, tổ chức xã hội và ý thức hệ chính trị... Chúa Kitô đã gặp gỡ con người xác phàm đầy sự yếu đuối, u mê và lầm lạc. Chúa Kitô đã phải đối xử một cách rất kiên nhẫn và nhân từ trong việc truyền rao chân lý Nước Trời.

Mầu nhiệm Nước Trời đã được gieo trồng trong thửa đất của tâm hồn con người. Tâm trí của con người không dễ dàng đón nhận những sự cao siêu trên trời vượt quá tầm trí hiểu. Chúa Giêsu đã thường lấy những hình ảnh cụ thể, thí dụ, tỉ dụ, dụ ngôn và ngụ ngôn để khải mở tâm trí con người để dẫn tới nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Đức Kitô dùng khoảng thời gian rất ngắn để hoàn thành tất cả những lời đã được các tiên tri loan báo: Công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời (Eph 1, 20). Chúng ta học biết Đức Kitô là con người lịch sử. Có nơi sinh và có chỗ từ trần. Ngài đã khai mở Nước Trời ban ơn cứu độ cho toàn dân. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều cách thế để ban ơn cứu độ. Đức Kitô không bị đóng khung hay giới hạn vào một niềm tin đặc thù nào, nhưng ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm thấy ơn cứu độ.

Khi Chúa Kitô hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Chúa Cha đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất, để mọi sự qui phục dưới chân Ngài: Chúa Giêsu tiến lại và nói với các ông rằng: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy (Mt 28, 18). Chúng ta tin nhận Chúa Kitô là nguyên thủy và là cùng đích. Thật khó hiểu, chúng ta rơi vào giữa sự huyền nhiệm đời đời và cụ thể thực nghiệm, giữa thần thiêng và vật chất, giữa vô hạn và giới hạn. Chúng ta không thể đong đo tính đếm con đường tâm linh. Với niềm tin vào Chúa Kitô là trung gian, thân phận con người mỏng dòn được cất nhắc lên làm con Chúa và được hứa ban sự sống trường sinh. Con người có chiều sâu ước muốn đời sống tâm linh vô hạn. Ngưỡng vọng một cuộc sống vĩnh cửu. Linh hồn hiện hữu thiêng liêng không bị tiêu diệt.

Chúa Giêsu mong muốn Tin mừng cứu độ được tiếp tục truyền rao đến muôn thế hệ. Ngài đã trao phó sứ mệnh này cho các tông đồ và những người kế vị: Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, là phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (My 28, 19). Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã ra đi tản mát mỗi người một nơi để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các ngài đã can đảm và không còn nhút nhát sợ sệt như trước nữa. Các ngài ra đi khắp vùng loan tin mừng cứu độ và mời gọi nhiều người trở về cùng Chúa. Các ngài đã nhiệt tâm rao giảng và dám dùng sự sống sự chết của mình để làm nhân chứng cho lời sự thật. Nhớ rằng, trước kia các tông đồ chỉ là những người chài lưới, ít học và dân giã. Nhưng với ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần tác động, các tông đồ đã hiên ngang chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác.

Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ và cách hiểu biết của loài người để diễn tả: Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài (Eph 1, 22). Chúa Kitô về trời là Ngài lên nơi đã ở trước. Ngài thuộc về thiên giới, còn chúng ta thuộc về hạ giới. Ngài không xuống trần để cai quản mà để phục vụ con người. Ngài hạ thân để chia sẻ tình yêu vô điều kiện. Ngài đã hiến mạng sống và yêu thương chúng ta đến cùng. Cách đơn giản, Chúa Giêsu muốn cứu chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỉ, sự dữ và tối tăm. Ngài muốn chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Ngài.

Chúng ta được tự do chấp nhận hay chối từ lời mời gọi của Chúa. Nếu thật tâm tìm kiếm và đi theo lối bước của Chúa, chúng ta cần lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống mình. Một ý tưởng minh họa: Khi du khách đi du lịch đến một đất nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền lưu hành tại nước đó. Tiền của chúng ta trên thế gian này chẳng có giá trị gì trên nước trời, nếu nó không đổi thành tiền của nước Trời, đó chính là các việc lành phúc đức có giá trị. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: Hãy bán gia sản và bố thí cho kẻ nghèo để mua Nước Trời.

Lạy Chúa, Chúa về trời nhưng Chúa vẫn còn luôn hiện diện giữa chúng con. Chúa không bỏ chúng con mồ côi. Chúa đi là để chuẩn bị chỗ cho chúng con và sẽ trở lại đón chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa đến muôn ngàn đời.

 Nguồn vietcatholic.org

1193    28-05-2014 14:34:30